[Anh Ngữ] Atlantis Gene

Thuận Phạm

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
17999892.jpg
Giới thiệu

Về mã gene Atlantis
Bí mật lớn nhất của thời gian…
Lịch sử về nguồn gốc loài người…
Sẽ được tiết lộ.


14565772169_4f3c33a00c_b.jpg

70,000 năm trước, loài người gần như đã tuyệt chủng.
Chúng ta đã sống sót, nhưng không ai biết bằng cách nào.


Cho tới lúc này.

Đồng hồ cho bước tiến hóa tiếp theo của loài người bắt đầu đếm ngược, và có thể nhân loại sẽ không sống sót được lần này.



Tổ chức Immari rất giỏi trong việc gìn giữ những bí mật. 2000 Năm nay, họ đã che giấu sự thật về sự tiến hóa của nhân loại. Họ cũng đã tìm kiếm một kẻ thù cổ đại- một mối đe dọa có thể quét sạch loài người. Bây giờ cuộc tìm kiếm đã kết thúc.

Ngoài bờ biển Antarctica, con tàu tìm kiếm phát hiện ra một cấu trúc thần bí được chôn sâu dưới một tảng băng lớn. Nó đã ở đó cả nghìn năm hơn, và có thứ gì đó đang bảo vệ nó. Dường như tổ chức Immari quá vội vàng để hoàn thành kế hoạch của họ, một nhà di truyền học xuất sắc đã phát hiện ra một thứ, thứ có thể thay đổi mọi thứ.

Bác sĩ Kate Warner chuyển tới Jakarta, Indonesia để trốn khỏi quá khứ của mình. Cô vẫn chưa phục hồi sau những thứ đã xảy ra cho cô, nhưng cô đã thực hiện một bước đột phá đáng kinh ngạc: thuốc chữa cho bệnh tự kỷ. Hoặc như cô nghĩ vậy. Thứ mà cô phát hiện ra nguy hiểm hơn rất nhiều- cho cả cô và cho tất cả nhân loại. Rơi vào tay của tổ chức Immari, nó sẽ là kết thúc cho nhân loại như ta vẫn biết.

Đặc vụ David Vale đã dùng hơn mười năm cố gắng dừng tổ chức Immari lại. Và giờ đây, anh ta sắp hết thời gian. Người cung cấp tin cho anh đã chết. Tổ chức của anh đã bị thâm nhập. Kẻ thù đang săn đuổi anh. Nhưng khi David nhận được một tin nhắn được mã hóa liên quan đến cuộc tấn công của tổ chức Immari, anh mạo hiểm tất cả để bảo vệ một người, người có thể giúp anh giải nó: Bác sĩ Kate Warner.

Cùng với nhau, Kate và David phải chạy đua để làm sáng tỏ một âm mưu toàn cầu và tìm ra sự thật về mã gien Atlantis… và khởi nguồn của loài người. Cuộc hành trình dẫn họ đến những góc xa xôi của trái đất và vào những bí mật trong quá khứ của họ. Tổ chức Immari theo sát gót chân họ và sẽ không dừng lại vì bất kỳ điều gì để đạt được kết quả nghiên cứu của Kate và thúc ép bước tiến hóa tiếp theo của nhân loại- ngay cả khi nó đồng nghĩa với việc giết chết 99.9% dân số thế giới. David và Kate có thể dừng họ được… Nếu họ có thể tin tưởng lẫn nhau. Và sống sót.
 
Last edited:

Thuận Phạm

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00
Lời Nói Đầu

Tàu tìm kiếm băng tan

Biển Atlantic

88 Dặm ngoài bờ biển Antarctica



Karl Selig nắm chặt lan can tàu và nhìn chăm chú vào tảng băng to lớn qua chiếc ống nhòm. Tại trung tâm của tảng băng, một mảng băng khác bị vỡ và rơi đi, làm lộ ra nhiều hơn một vật đen dài đã được nó bao bọc. Nó trông gần như là … một chiếc tàu ngầm. Nhưng không thể nào.

“Steve, nhìn này.”

Steve Cooper, bạn cùng đại học của Karl, xiết chặt một chiếc phao và đi qua một bên khác của tàu cùng Karl. Gã lấy chiếc ống nhòm, quét một cách nhanh chóng, rồi dừng lại. “wow, đó là thứ gì? Một chiếc tàu ngầm?”

“Có thể----”

“Cái gì ở dưới nó thế?”

Karl chụp lấy chiêc ống nhòm. “Bên dưới nó…” Hắn hạống nhòm xuống khu vực bên dưới chiếc tàu ngầm. Ởđó có một thứ gì đó khác. Chiếc tàu ngầm, nếu nó là một chiếc tàu ngầm, được gắn chặt với một vật kim loại khác, thứ này màu xám và lớn hơn chiếc tàu ngầm rất rất nhiều. Nhưng không như chiếc tàu ngầm, vật màu xám này không hề phản chiếu tí ánh sáng nào; nó trông như những cơn sóng hơn, cái loại chỉ chiếu sáng trên đường chân trời của đường cao tốc vào một ngày ấm áp hay một đường kẻ dài của sa mạc. Thế nhưng nó cũng chẳng ấm áp, hoặc ít nhất nó đã không làm tan chảy băng xung quanh nó. Ngay bên trên cấu trúc, Karl nhìn thoáng qua được vài dòng ghi trên chiếc tàu ngầm: U-977 và SS Kreigsmarine. Một chiếc tàu ngầm của Đức Quốc Xã. Bị dính chặt vào … một kiến trúc hay gì đó tương tự.

Karl đánh rơi chiếc ống nhòm sang một bên. “Đánh thức Naomi và chuẩn bị neo chiếc tàu nào. Chúng ta sẽ kiểm tra nó.”

Steve nhào xuống dưới cái bàn, và Karl nghe thấy tiếng gã đánh thức Naomi từ một trong hai căn buồng của chiếc tàu nhỏ. Nhà tài trợ của Karl đã nài nỉ hắn dắt Naomi theo. Trong buổi gặp mặt đó, Karl đã gật đầu đồng ý, và mong rằng cô ấy sẽ không làm cản đường họ. Hắn đã không phải thất vong. Năm tuần trước, khi họ ra khơi ở Cape Town, Nam Phi. Naomi đã đem lên tàu hai tủ quần áo, ba quyển tiểu thuyết lãng mạn( sướt mướt), và một lượng rượu Volka đủđể giết cả một đội quân Nga. Họ ít khi thấy cô ấy từ khi đó. Ởđây có vẻ quá nhàm chán với Naomi, Karl nghĩ thế. Với hắn, nó là cơ hội của cả một đời.

Karl nâng chiếc ống nhòm và nhìn một lần nữa vào tảng băng khổng lồđã bị vỡ từ Antarctica gần cả tháng trước. Gần như 90% của tảng băng trôi nằm dưới nước, nhưng diện tích bề mặt vẫn gần 47 dặm vuông----- gấp 1.5 lần kích thước của Manhattan.

Luận án tiến sĩ của Karl tập trung vào cách những mảnh băng trôi mới hình thành tác động các dòng biển toàn cầu khi chúng được hòa tan. Hơn bốn tuần vừa qua, hắn và Steve đã triển khai những chiếc phao công nghệ cao xung quanh tảng băng trôi đểđo lường nhiệt độ biển và sự cân bằng của độ mặn và độ sạch của nước biển cũng như lấy chu kỳ sóng âm của tảng băng trôi khi thay đổi hình dạng. Mục đích là để nghiên cứu nhiều hơn về cách những tảng băng trôi tan rả sau khi rời khỏi Antarctica. Antarctica giữ hơn 90% băng trên thế giới, và khi nó tan ra trong hơn vài thế kỷ nữa, nó sẽ thay đổi trái đất một cách kịch liệt. Hắn mong rằng nghiên cứu của mình sẽ làm sáng tỏ một cách chính xác sự thay đổi đó.
Karl đã gọi Steve ngay khi hắn phát hiện mình được tài trợ. “Anh phải đi với tôi—Không, tin tôi.” Steve đã đồng ý một cách miễn cưỡng, và trong sự hân hoan của Karl, ông bạn cũ của hắn đã đến cùng tham gia chuyến thám hiểm, họđọc các số liệu vào ban ngày và thảo luận sơ bộ những thứ tìm được mõi tối. Trước chuyến đi, công việc thường nhật của Steve cũng thiếu sức sống như tảng băng trôi mà họ theo sau, như cái cách mà gã đã buông trôi từng chủđề luận văn một. Karl và những người bạn khác của họđã từng tự hỏi có chăng gã cũng buông luôn nguyên chương trình học tiến sĩ.

Các số liệu nghiên cứu đã từng rất hấp dẫn, và giờ họ nhận thấy một số thứ khác, một số thứđáng chú ý. Nó sẽở trang đầu. Nhưng họ sẽ nói thế nào đây? “Tàu ngầm của Đức Quốc Xã được tìm thấy ở Antarctica.” Nó cũng không phải là không thể tưởng tượng được.

Karl biết rằng Đức Quốc Xã đã từng bị ám ảnh bởi Antarctica. Chúng gửi nhũng đoàn thám hiểm đến đây vào năm 1938 và 1939 và thậm chí từng tuyên bố một phần của mảnh lục địa này là một bang mới của Đức--- Neuschwabenland. Một vài chiếc tàu ngầm Đức Quốc Xã chưa bao giờđược sữa chữa lại trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 và cũng chưa được biết rằng đã bị chìm. Thuyết âm mưu nói rằng một chiếc tàu ngầm đã rời Đức ngay trước sự sụp đổ của Đế chế thứ ba, mang đi những tên phát xít cao cấp nhất và phần lớn ngân quỹ, bao gồm những cổ vật vô giá bịđánh cắp và những món đồ công nghệ cao bí mật nhất. Thuyết âm mưu này tăng trưởng ngày một lớn hơn mỗi năm, nhưng sự thật đó là: Một chiếc tàu ngầm Đức Quốc Xã trong một tảng băng trôi ngoài bờ biển Antarctica.

Ngay trong tâm trí của Karl, một suy nghĩ mới nổi lên: Tiền thưởng. Nếu kho báu của Đức Quốc Xã thực nằm trong chiếc tàu ngầm, nó sẽđáng giá cả một gia tài. Hắn sẽ không bao giờ phải lo lắng về tiền tài trợ cho nghiên cứu nữa.

Thách thức cấp bách nhất hiện giờđó là nối chiếc thuyền với tảng băng trôi. Các vùng biển thì không bằng phẳng, và nó khiến họ mất hơn ba lần vượt lên trên, nhưng cuối cùng họ cũng cột được vài dặm từ chiếc tàu ngầm và cấu trúc kỳ lạ bên dưới nó.

Karl và Steve buộc chặt và mặc vào bộ thiết bị leo núi của họ. Karl đưa cho Naomi một vài hướng dẫn sử dụng cơ bản, cái dài và cái ngắn mà ý nghĩa là “Đừng đụng vào bất kỳ cái nào,” sau đó hắn cùng Steve hạ người xuống miếng băng nhô ra bên dưới con tàu.

Trong 45 phút kế tiếp, không ai trong cả hai người nói bất kỳđiều gì bởi họđang lê bước chậm chạp qua ngọn núi băng gập ghềnh. Lớp băng ngày càng gập ghềnh hơn về phía trước trong và bước chân họ bị chậm lại, Steve bị nhiều hơn Karl.

“Chúng ta cần lấy nó lên, Steve.”

Steve nổ lực để theo kịp. “Xin lỗi. Một tháng trên tàu làm tôi mất dáng rồi.”

Karl liếc nhìn lên mặt trời. Khi nó lặn, nhiệt độ sẽ tuột nhanh và họ gần như sẽ bịđông cứng tới chết. Ởđây ngày dài hơn đêm. Mặt trời mọc lúc 2:30 sáng và lặn sau 10 giờ tối, nhưng họ chỉ có vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Karl bước nhanh hơn một chút.

Đằng sau hắn, hắn nghe được Steve kéo lê đôi giày tuyết của gã nhanh hết mức gã có thể, cố gắng một cách tuyệt vọng để bắt kịp. Một vài tiếng động lạ vọng lên từ băng: đầu tiên là tiếng vo vo trầm thấp, sau đó nhanh chóng lớn như tiếng búa bổ, như hàng nghìn con chim gõ kiến đang tấn công tảng băng. Karl dừng lại và lắng nghe. Hắn quay sang Steve và mắt họ họ không hẹn mà cùng gặp tại một vết nứt mạn nhện nhỏ cắt ngang mảng băng dưới chân Steve. Steve nhìn xuống một cách kinh hoàng, rồi chạy tới Karl và phần băng chưa chạm hết sức có thể.

Với Karl, khung cảnh thật kỳ quái, bày ra gần như một đoạn chuyển động chậm. Hắn cảm thấy bản thân chạy tới bạn của mình và ném ra một đoạn dây thừng từ thắt lưng của mình. Steve chụp được dây thừng nửa dây trước khi một vết nứt lớn được hình thành từ băng và không khí dưới chân gã sụp đổ, tạo thành một vực sâu khổng lồ.

Sợi dây lập tức được kéo siết lại, giật Karl ra khỏi chân hắn và lần đầu tiên đập bụng hắn vào băng.

Hắn cố gắng theo sau Steve vào khe băng. Karl xô đẩy mạnh để lấy chân xuống nhưng sức kéo của sợi dây thừng là quá mạnh. Hắn thả lỏng hai tay mình, và sợi dây trượt qua chúng, làm chậm những chuyển động về phía trước của hắn. Hắn cố gắng đặt chân mình về phía trước, và những cái móc sắt bên dưới giày ống bám vào băng, làm rơi vài mảnh băng vào mặt hắn khi hắn dừng lại. Hắn bóp chặt sợi dây thừng, và kéo chặt nó qua phần đá nhô ra, tạo nên một thanh âm kỳ lạ gần như tiếng đàn vĩ cầm trầm thấp.

“Steve! Trèo lên! Tôi sẽ kéo anh lên----“

“Đừng,” Steve hét lên.

“Cái gì? Anh điên rồi à-----“

“Có gì đó dưới đây, hạ tôi xuống, một cách chậm thôi.”

Karl nghĩ một lúc. “Nó là gì?”

“Trông như một đường hầm hoặc một cái hang. Nó có kim loại xám bên trong. Nó mờ.”

“Được rồi, bám chặt, tôi sắp nới lỏng một tí đây.” Karl thả khoảng 10 bộ của sợi dây, và khi hắn không nghe được gì từ Steve, thêm 10 bộ nữa.

“Dừng,” Steve gọi.

Karl cảm thấy sợi dây giật mạnh. Steve đang đung đưa à? Sợi dây được nới.

“Tôi ở bên trong rồi,” Steve nói.

“Nó là gì?”

“Không chắc.” Giọng Steve không còn nghe rõ nữa.

Karl bò tới mép băng và nhìn qua.

Steve bị mắc kẹt đầu mình ngoài miệng hang.“Tôi nghĩđây là một kiểu giáo đường nào đó. Nó to lớn. Có chữ viết trên các bức tường. Các ký hiệu--- không giống bất kỳ thứ nào tôi từng thấy. Tôi sẽ kiểm tra nó lại.”

“Steve,đừng---“

Steve lại biến mất.

Vài phút trôi qua. Đó có phải một rung động nhẹ nữa chăng? Karl nghe một cách cẩn thận. Hắn không thể nghe nó, nhưng hắn có thể cảm nhận được nó. Bây giờ băng đang đạp nhanh hơn. Hắn đứng dậy và lùi một bước khỏi mép. Tảng băng phía sau hắn bị nứt , và rồi vết nứt ở khắp mọi nơi--- lan rộng ra một cách nhanh chóng. Hắn chạy toàn lực tới khe nứt đang mở rộng. Hắn nhảy – Và gần như qua được bờ bên kia, nhưng chỉđược một đoạn ngắn. Tay hắn bắt được một miếng băng lồi ra, và hắn bị treo lơ lưng ởđó trong một giây rất dài. Sự rung động trong băng ngày một dữ dội hơn theo mỗi giây. Karl nhìn thấy băng ở xung quanh hắn đổ vụn và rơi xuống, và rồi mãnh băng giữ hắn cũng tan vỡ, và hắn lao thẳng xuống vực sâu.


Trên tàu, Naomi nhìn mặt trời lặn qua tảng băng trôi. Cô lấy chiếc điện thoại vệ tinh và quay số mà người đàn ôn đó đã đưa cô.

“Ông bảo tôi gọi nếu phát hiện bất kỳđiều gì thú vị.”

“Đừng nói gì cả. Giữ máy đó. Chúng tôi sẽ có tọa độ của cô trong hai phút nữa. Chúng tôi sẽ tới chỗ cô.”

Cô đặt điện thoại trên máy tính và đi ngược vào bếp, và tiếp tục khoáy hũđậu.


Người đàn ông ở đầu dây bên kia của điện thoại vệ tinh nhìn lên khi tọa độ GPS sáng lên trên màn hình của mình. Ông ta sao chép địa điểm và tìm kiếm dữ liệu hình ảnh giám sát cho dữ liệu trực tiếp. Một kết quả.

Ông ta mở nguồn và hạ tầm nhìn xuống trung tâm của tảng băng trôi, cái điểm tối tăm đó. Ông ta phóng to vài lần và khi hình ảnh được đưa tới trung tâm, ông ta đánh rơi café của mình xuống sàn, lao nhanh ra khỏi phòng làm việc của mình, và chạy xuống đại sảnh tới phòng làm việc của giám đốc. Ông ta xông vào, và cắt ngang một người đàn ông tóc xám đang đứng nói chuyện với hai tay giơ lên.

“Chúng ta đã tìm được nó.”
 
Last edited:

Thuận Phạm

Phàm Nhân
Ngọc
50,00
Tu vi
0,00

Phần 1: Jakarta rực cháy

Chương 1


Trung tâm nghiên cứu Autism (ARC)

Jakarta, Indonesia

Ngày nay


Bác sĩ Kate Warner thức dậy trong một cảm giác thật kinh hãi: đã có ai đó ở trong phòng. Cô đã cố mở đôi mắt mình, nhưng không thể. Cô cảm thấy chếnh choáng, gần như bị đánh thuốc. Không khí thật mốc meo… dưới mặt đất. Cô vặn người một tí và cơn đau như chạy qua người cô. Cái giường bên dưới cô rất cứng, có lẽ là một chiếc trường kỷ; hẳn nhiên không phải chiếc giường của cô ở tầng 19 khu chung cư trung tâm Jakarta. Cô đã ở đâu?

Cô nghe thấy một tiếng bước chân nhẹ nhàng, như giày tennis trên thảm. “Kate” người đàn ông thì thầm, kiểm tra xem cô đã tỉnh dậy chưa.

Kate xoay sở để mở mắt nhiều hơn một ít. Bên trên cô, các tia nắng mờ nhạt xuyên qua những tấm màn kim loại che phủ những chiếc cửa sổ ngắn và rộng. Trong góc, một tia sáng nhấp nháy đâm qua căn phòng mo vài giây, như ánh đèn flash của một chiếc máy ảnh chụp nhanh không ngừng nghỉ.

Cô hít một hơi thật sâu và ngồi dậy một cách nhanh chóng, lần đầu tiên nhìn rõ người đàn ông đó. Hắn ta xoay người lại, làm rơi một thứ gì đó, một chất lỏng màu nâu lan trên sàn nhà.

Đó là Ben Adelson, trợ lý phòng thí nghiệm của cô. “Chúa ơi, Kate. Tôi xin lỗi. Tôi đã nghĩ… nếu cô tỉnh lại, cô sẽ muốn chút café.” Hắn nghiêng người để nhặt những mảnh vụn còn lại của ly café, và khi hắn nhìn cô gần hơn, hắn nói, “Ôi chúa, cô trông thật tệ, Kate.” Hắn nhìn chằm chằm vào cô một lúc. “Làm ơn nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra.”

Kate dụi mắt mình, và đầu cô dường như rõ ràng chút bởi cô đã nhận ra mình đã ở đâu. Cô đã làm việc ở phòng thí nghiệm suốt ngày đêm trong suốt năm ngày vừa qua, hầu như không ngừng nghỉ kể từ khi cô nhận được cuộc gọi từ người tài trợ nghiên cứu của mình: trình bày các kết quả ngay, bất kể kết quả thế nào, hoặc các khoản kinh phí sẽ đi tong. Không có biện giải nào cho lần này. Cô vẫn chưa nói cho bất kỳ nhân viên nào về việc nghiên cứu bệnh tự kỷ của mình. Không có lý do gì để lo lắng về họ. Trong cả trường hợp cô có vài kết quả, và họ tiếp tục hoặc cô không có, và họ về nhà. “Café nghe có vẻ tốt, Ben. Cảm ơn.”


Người đàn ông ra khỏi chiếc xe van và kéo chiếc mặt nạ xuống. “Dùng con dao bên trong của cô. Tiếng súng sẽ gây chú ý.”

Phụ tá của ông ta, một người đàn bà, cũng gật đầu và kéo mặt nạ của mình xuống.

Người đàn ông dăng bao tay mình vào cửa, rồi do dự. “Cô có chắc chuông báo động đã tắt rồi chứ?”

“Vâng. À, tôi đã cắt đường dây bên ngoài, nhưng chắc bên trong nó cũng tắt rồi.”

“Cái gì?” Ông ta lắc đầu mình. “Chúa ơi ----- Chúng có thể đã gọi nó ngay lúc này. Đi thôi nào. Ông ta để cửa mở và xộc vào bên trong.

Trên cánh cửa, một bảng hiệu đọc được là:

Trung tâm nghiên cứu bệnh tự kỷ

Lối vào cho nhân viên



Ben trở lại với một cốc café mới, và Kate cảm ơn hắn. Hắn ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện bàn cô. “Cô sẽ tự mình làm việc tới chết mất thôi. Cô đã ngủ ở đây bốn đêm rồi. Và giữ bí mật, nghiêm cấm tất cả mọi người trong phòng nghiên cứu, lưu trữ những chú thích của cô, không cho phép nói về ARC- 247. Tôi không phải là người duy nhất lo lắng đâu.”

Kate nhấm nháp café. Jakarta từng là một nới khó khăn để thí nghiệm lâm sàng, nhưng làm việc trên hòn đảo Java này cũng đem lại vài điểm sáng. Café là một trong số chúng.


Cô không thể kể cho Ben biết điều mà cô đang làm trong phòng nghiên cứu, ít nhất là chưa được. Có thể nó không đưa đến gì, và hơn hết dường như tất cả họ đều bị văng khỏi công việc. Đưa anh ta vào chỉ khiến hắn trở thành đồng lõa cho một tội ác.

Kate gật đầu về phía vật nhấp nháy trong góc phòng. “Cái ánh sáng nhấp nháy đó là gì vậy?”

Ben liếc qua lưng mình về phía đó. “Không chắc. Một chiếc máy báo động, tôi nghĩ-----“

“Cháy?”

“Không. Tôi đã làm vài vòng khi tôi đến đây, nó không phải là một vụ cháy. Tôi đã định kiểm tra kỹ lưỡng một vòng khi tôi nhận thấy cửa của cô bị bẻ.” Ben chạm tới một trong cả tá thùng cát tông trong phòng làm việc của Kate. Hắn lướt qua một vài chiếc bằng được đóng khung. “Sao cô không đặt mấy cái này lên?”

“Tôi không cảm thấy có ý nghĩa gì cả.” Treo văn bằng không phải là phong cách của cô và thậm chí nếu đó là phong cách của cô, cô sẽ dùng chúng để gây ấn tượng với ai chứ? Kate là nhà nghiên cứu và bác sĩ duy nhất trong dự án nghiên cứu, và tất cả nhân viên đều biết hồ sơ của cô. Họ chẳng có khách viếng thăm, và duy chỉ vài người khác, những người thấy văn phòng của cô là hai mươi nhân viên quan tâm về trẻ em tự kỷ trong chương trình nghiên cứu. Các nhân viên sẽ nghĩ Stanford và Johns Hopkins là những người mà có lẽ có họ hàng đã chết từ lâu, các văn bằng không chừng chỉ để là giấy khai sinh của họ.

“Tôi sẽ đặt nó lên, nếu tôi có được văn bằng tiến sĩ y học từ Johns Hopkins.” Ben cẩn thận đặt chiếc bằng trở lại hộp và lục lọi xung quanh nó thêm một lát.

Kate uống sạch giọt café cuối cùng. “Vâng?” Cô đưa chiếc ly ra. “Tôi sẽ đổi cho cô một ly café khác nhé.”

“Có phải nó nghĩa là tôi được sai vặt cậu lúc này?”

“Đừng bị bắt đi đấy.” Kate nói khi Ben rời khỏi phòng. Cô đứng dậy và vặn chiếc xi lanh làm bằng nhựa cứng điều khiển những chiếc rèm, làm lộ ra một góc nhìn về hàng rào dây sắt nối vòng tròn quanh tòa nhà của họ và bên ngoài nó, những con đường đông đúc của Jakarta. Đầy ấp những người đi làm vào buổi sớm. Những chiếc xe buýt, xe ô tô nhích từng chút một cũng vì những chiếc xe gắn máy phóng ra phóng vào những khoảng trống chật hẹp giữa chúng. Xe đạp và người đi bộ khỏa lấp từng inch vuông của các phần đường đi bộ. Và cô đã từng nghĩ giao thông ở San Francisco thật tệ.

Nó không chỉ là về giao thông. Jakarta vẫn cảm thấy thật xa lạ đối với cô. Nó không phải là nhà. Có lẽ sẽ chẳng bao giờ là. Bốn năm trước, Kate sẽ di cư đến bất kỳ nơi nào trên thế giới, bất kỳ nơi nào không phải là San Francisco. Martin Grey, cha nuôi của cô, đã nói, “Jakarta sẽ là một nơi thật tuyệt để tiếp tục công việc nghiên cứu của con… và… để bắt đầu lại.” Ông cũng nói gì đó về việc thời gian chữa lành mọi vết thương. Nhưng giờ cô sắp hết thời gian rồi.

Cô quay lại bàn làm việc và bắt đầu dẹp đi những bức ảnh Ben đã lấy ra. Cô dừng lại tại một bức ảnh mờ của một căn phòng khiêu vũ lớn với sàn gỗ. Làm sao mà nó lại lẫn với đồ làm việc của cô được chứ? Nó là bức ảnh duy nhất cô có về căn nhà thời thơ ấu của mình ở phía tây Berlin, chỉ ngoài Tiergartenstrabe một chút. Kate chỉ có thể chụp được 3 nơi từng ở. Trong ký ức của mình, nó cảm giác giống như một đại sứ quán nước ngoài hoặc một cơ ngơi bất động sản lớn từ thời khác hơn. Một tòa lâu đài. Một tòa lâu đài trống rỗng. Mẹ Kate đã chết trong khi sinh, và trong khi cha cô đang trong một mối tình, ít khi ông xuất hiện. Kate đã cố mường tượng ra ông trong trí tưởng tượng, nhưng cô không thể. Chỉ có một hồi ức mơ hồ về một ngày lạnh của tháng mười hai khi ông dẫn cô đi dạo. Cô còn nhớ bàn tay bé nhỏ của cô đã cảm thấy thế nào trong tay của ông, sự an toàn cô đã từng cảm nhận được. Họ đã đi bộ cả đoạn đường xuống Tiergartenstrabe, tới Bức Tường Berlin. Đó là một khung cảnh thật ảm đạm: Các gia đình đặt những vòng hoa và những tấm hình, hy vọng và cầu nguyện bức tường sập xuống và những người dấu yêu của họ quay về. Những ký ức khác chớp hiện về ông ấy rời đi và trở về, luôn cùng với vài món đồ mỹ nghệ từ những nơi thật xa. Tên của người quản gia là gì nhỉ? Hay người giám hộ sống với bà ta và những nhân viên khác ở tầng trên. Bà ta đã dạy Kate tiếng Đức. Cô vẫn có thể nói tiếng Đức, nhưng lại không thể nhớ được tên của bà ấy.


Ký ức rõ ràng nhất trong sáu năm đầu đời của cô là cái đêm Martin đến và dắt cô tới phòng khiêu vũ, tắt nhạc đi và nói cho cô biết cha cô sẽ không về nhà nữa---- không bao giờ nữa---- và rồi cô sẽ đến sống với ông.

Cô ước gì cô có thể xóa bỏ ký ức đó, và cô cũng sớm quên đi 13 năm sau đó. Cô đã chuyển đén Mỹ sống với Martin, nhưng rồi các thành phố nối đuôi nhau khi ông vội vàng lao vào các chuyến thám hiểm không hồi kết và cô bị chuyển từ hết trường này đến trường khác. Chẳng có nơi nào cảm thấy như nhà.


Phòng nghiên cứu của cô. Nó là thứ gần nhất với định nghĩa nhà mà cô có. Cô dành mỗi thời khắc thức dậy ở đây. Cô ném bản thân vào công việc sau chuyện ở San Francisco, và cái đó đã bắt đầu như một cơ chế bảo vệ, một cơ chế sinh tồn, trở thành thói quen của cô, phong cách của cô. Đội nghiên cứu trở thành gia đình cô và những người tham gia nghiên cứu là những đứa trẻ của cô.

Và tất cả chúng sắp biến mất.

Cô cần phải tập trung. Và cô cần nhiều café hơn. Cô đẩy chồng hình ra khỏi bàn vào trong chiếc thùng bên dưới. Ben ở đâu?

Kate bước ra đại sảnh và đi về phía nhà bếp của nhân viên. Trống không. Cô kiểm tra hũ café. Trống không. Những tia sáng nhấp nháy ở đây cũng sắp tắt.

Có gì đó không ổn. “Ben,” Kate gọi to.

Các nhân viên nghiên cứu khác sẽ không ở đây trong vài tiếng nữa. Họ duy trì một lịch trình kỳ quặc, nhưng họ làm việc rất giỏi. Kate quan tâm nhiều hơn về công việc.


Cô mạo hiểm đi về phía chái nhà nghiên cứu (Chái nhà: Nó là phần mở rộng bên trái hoặc phải của nhà chính, thường để chứa tạm nông sản hoặc nông cụ. Nguồn gốc từ miền Bắc), gồm một chuỗi các phòng lưu trữ và văn phòng bao quanh một phòng nghiên cứu sạch sẽ to lớn, nơi mà Kate và đội kỹ sư thiết kế các loại virus trị liệu gien mà họ hi vọng có thể chữa được bệnh tự kỷ. Cô nhìn xuyên qua cửa kính. Ben không ở trong phòng nghiên cứu.


Tòa nhà thật rùng rợn vào thời gian này của buổi sáng. Nó trống rỗng, im ắng, và không quá tối nhưng cũng chẳng sáng. Các trục tập trung ánh nắng đổ vào hành lang từ các cửa sổ trong các phòng ở mỗi bên, như kiểu tìm kiếm các tia sáng là tìm kiếm các dấu hiệu của sự sống.

Tiếng bước chân của Kate vang vọng một cách ầm ĩ khi cô lãng vãng gần các hốc chái nhà nghiên cứu, nhìn trộm vào mỗi phòng, nheo mắt để nhìn xuyên qua ánh mặt trời chói lọi của Jakarta. Tất cả đều trống rỗng. Chỉ còn phần cư trú---- các hộ gia đình, nhà bếp, và các cơ sở hỗ trợ cho việc nghiên cứu gần 100 trẻ em mắc chứng tự kỷ.


Trong một khoảng cách nhất định, Kate có thể nghe được những tiếng bước chân khác, nhanh hơn của cô--- đang chạy. Cô bắt đầu đi một cách nhanh hơn, theo hướng của họ, và ngay khi cô quẹo qua góc tường, ben vươn tay ra và nắm lấy cánh tay cô. “Kate! Đi theo tôi, nhanh lên.”
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top