[Anh Ngữ] Tổng quan về IELTS Speaking Test

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
1. Lời nói đầu

Điểm thi IELTS hiện giờ đã trở thành 1 tiêu chí khá phổ biến để đánh giá năng lực sử dụng tiếng Anh của học sinh. Phần thi Speaking - Nói - là một trong 4 kĩ năng yêu cầu (Listening - Reading - Writing - Speaking) của kì thi này, và do đó, các thí sinh cần quan tâm kĩ lưỡng đến nó.

Thông thường học sinh VN đều học tiếng Anh theo kiểu "chay", tức là học trên lớp là chủ yếu, về nhà thỉnh thoảng mới đọc sách/làm bài tập ngữ pháp, và do đó khá yếu Speaking. Thành ra có nhiều người (bao gồm cả mình) thường hy vọng vào điểm số của 3 kĩ năng khác đủ cao để gánh điểm Speaking.

Tuy nhiên, nếu bạn không dành ra nhiều tháng để học từ vựng, thì khả năng đạt được mức Reading hay Writing trên 7 cũng khá thấp. Thêm nữa, nếu không biết cách phát âm của một từ, thì khả năng cao là khi nghe phải từ đó, bạn cũng không nhận ra nó là gì, và thế là cũng tạch luôn điểm Listening. Do đó mình khuyên các bạn học đều, tức là dành ra đủ thời gian học cho Speaking.


2. Tiêu chí chấm thi

Điểm tổng của Speaking test tối thiểu là 0, và tối đa là 9.0. Điểm được chấm đến mức lẻ 0.5. Tức là bạn có thể được 6.0 hoặc 6.5 nhưng không thể được 6.25.

Mức 0 chỉ dành cho người bỏ thi, và nếu bạn nói lắp bắp được vài câu (dù cho có chẳng hiểu câu hỏi là gì đi nữa) thì cũng đã được tối thiểu là 3 điểm rồi. Do mọi thí sinh đi thi IELTS đều đã học qua những cấu trúc căn bản nên điểm thấp nhất trong thực tế là 4.0. Trung bình thì điểm thi Speaking của học sinh VN cỡ 5.5 hoặc cao hơn chút xíu.

Có 4 hạng mục để đánh giá điểm số của thí sinh:
  • Fluency & Coherence (độ trôi chảy của bài nói và tính chắc chắn của bố cục)
  • Lexical Resource (vốn từ vựng)
  • Grammatical range & Accuracy (vốn ngữ pháp)
  • Pronunciation (phát âm)
Cả 4 hạng mục trên có độ ảnh hưởng tương đương nhau đến tổng điểm. Để biết rõ hơn về tiêu chí của 4 hạng mục này, bạn có thể xem bản tiếng Anh bằng cách google "IELTS Speaking band descriptors".

Ở đây mình chỉ dịch band descriptor của mốc điểm từ 4 đến 8.

  • Fluency & Coherence: Hay ngập ngừng, nói chậm, thường tự lặp lại từ ngữ của chính mình, và thường phải nói lại câu vừa nói để sửa lỗi ngữ pháp. Đã biết nối các câu đơn thành đoạn văn, nhưng các liên từ (connectives) được sử dụng một cách đơn điệu, bài nói khó hiểu.
  • Lexical Resources: Có khả năng nói về các chủ đề quen thuộc, nhưng chỉ đưa ra được những từ ngữ đơn giản khi đụng phải chủ đề lạ. Hay chọn sai từ. Gần như không biết paraphrase.
  • Grammatical range & Accuracy: Nói tàm tạm được câu đơn nhưng hiếm khi nói được câu ghép. Hay mắc lỗi dẫn đến gây khó hiểu.
  • Pronunciation: Chỉ thể hiện được rất ít tiêu chí phát âm. Thường xuyên phát âm sai, khiến cho người nghe rất khó nắm bắt.
  • Fluency & Coherence: Nói chung là mạch lạc nhưng hay tự lặp lời, tự sửa lỗi, và/hoặc phải nói chậm hơn bình thường để giữ nhịp độ. Có thể bị lặp đi lặp lại một số liên từ hoặc thán từ (discouse markers). Nói câu đơn trôi chảy, nhưng không làm được điều đó với những cấu trúc phức tạp hơn.
  • Lexical Resources: Có thể nói về các chủ đề quen thuộc lẫn ít quen thuộc hơn, nhưng vốn từ không đa dạng. Đã cố paraphrase nhưng không thành công lắm.
  • Grammatical range & Accuracy: Nói được chính xác những câu đơn giản. Thỉnh thoảng dùng một số cấu trúc phức tạp, nhưng chúng thường có đi kèm lỗi, gây khó hiểu cho người nghe.
  • Pronunciation: Có tất cả ưu điểm của Band 4, và có một vài nhưng không phải toàn bộ ưu điểm của Band 6.
  • Fluency & Coherence: Có cố gắng kéo dài bài nói, dù thỉnh thoảng còn lặp từ, tự sửa lỗi hoặc ngập ngừng. Có sử dụng nhiều liên từ và thán từ nhưng không được chính xác cho lắm.
  • Lexical Resouces: Vốn từ đủ rộng để thảo luận dài, và truyền đạt được đúng ý nghĩa cần nói, dù vẫn còn sai sót. Nói chung là biết paraphrase.
  • Grammatical range & Accuracy: Sử dụng hỗn hợp cả cấu trúc đơn giản lẫn phức tạp, nhưng không thành công nhiều. Thường mắc lỗi khi dùng cấu trúc phức tạp, nhưng hiếm khi gây khó hiểu cho người nghe.
  • Pronunciation: Thể hiện được một số tiêu chí phát âm, nhưng không thành công lắm. Nói chung là đủ để khiến người nghe hiểu được, nhưng những lỗi phát âm về từ đơn hoặc đơn âm thỉnh thoảng gây khó hiểu.
  • Fluency & Coherence: Nói liền mạch mà không cần cố gắng quá sức. Đôi khi còn ngập ngừng khi thiếu ý từ, hoặc lặp từ, hoặc tự sửa lỗi. Biết kha khá liên từ và thán từ.
  • Lexical resources: Đủ vốn từ để nói về nhiều chủ đề khác nhau. Sử dụng được một số thành ngữ hoặc từ ngữ ít gặp. Có nhận thức về văn phong tiếng Anh cũng như collocation, dù còn mắc lỗi. Paraphrase ở mức khá.
  • Grammatical range & Accuracy: Sử dụng được một vài cấu trúc phức tạp. Đa số câu không bị mắc lỗi, dù vẫn còn mắc một vài lỗi giống nhau trong suốt phần thi.
  • Pronunciation: Có tất cả ưu điểm của Band 6, và có một vài nhưng không phải toàn bộ ưu điểm của Band 8.
  • Fluency & Coherence: Nói trôi chảy, hiếm khi bị lặp từ hoặc tự sửa lỗi, hiếm khi phải tạm dừng để tìm ý. Bài nói có bố cục hợp lí và trọn vẹn.
  • Lexical resources: Vốn từ rộng và có khả năng diễn đạt chuẩn xác ý tứ. Biết sử dụng thành ngữ và từ ít gặp một cách thành thạo, hiếm khi bị sai. Paraphrase được như yêu cầu của giám thị.
  • Grammatical range & Accuracy: Sử dụng nhiều cấu trúc câu phức tạp. Đa số câu nói đều không bị lỗi ngữ pháp.
  • Pronunciation: Thể hiện được đa số tiêu chí cần dùng trong phát âm và giữ vững được chúng trong cả bài nói. Ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ đến giọng điệu của người nói là rất thấp và không làm bài nói bị khó hiểu.

Nếu chưa biết về các tiêu chí phát âm, mời các bạn đọc bài viết Tự luyện Speaking bằng cách thành thạo 7 kĩ năng. Sơ lược về thành ngữ lẫn collocation thì mình có viết ở thread Tầm quan trọng của thành ngữ và làm sao để nắm được chúng.

Còn về các vấn đề ngữ pháp (connectives, discourse markers, ect), các bạn hãy tự google, vì trọng tâm của bài viết này là Speaking.

Do cách chấm điểm phụ thuộc cảm quan như trên, nên điểm thi IELTS Speaking cũng khá hên xui. Các giám khảo không được cho trước một mốc cố định kiểu như "nếu 10 lần phát âm sai thì bị trừ 1 điểm ở Pronunciation". Và vì thế, ngoài việc chấm theo kinh nghiệm, họ còn dựa vào người làm bài thi trước đó.

Lấy ví dụ, trước khi bạn vào phòng thi, có một thí sinh nói hay hơn bạn một chút (nhưng đủ để nhận ra), nếu xét theo tiêu chí Lexical Resources, và anh ta được 7.0 ở tiêu chí này. Vậy thì đến lượt bạn, bạn sẽ được 6 điểm ở mục Lexical Resources.

Điểm của 4 hạng mục luôn là số nguyên (chỉ có 6 hoặc 7 chứ không có 6.5). Điểm tổng Speaking của bạn sẽ là điểm trung bình của 4 hạng mục trên, làm tròn theo quy tắc sau:
  • Điểm của từng 4 hạng mục không bao giờ chênh lệch nhau quá 1 điểm. Tức là nếu Lexical resource của bạn được 7 và Pronunciation được 5 thì giám khảo sẽ kéo cả 2 hạng mục thành 6 cho cân.
  • Theo như quy tắc trên, điểm trung bình Speaking sẽ chỉ có phần phía sau dấu phẩy là 0.0, 0.25, 0.5 hoặc 0.75.
  • Cả 0.25 lẫn 0.75 đều được làm tròn thành 0.5 hết.
Ví dụ điểm thi của bạn như sau:
  • Fluency & Coherence: 5
  • Lexical Resource: 6
  • Grammatical range & Accuracy: 5
  • Pronunciation: 6
Thì điểm trung bình sẽ là (5+6+5+6)/4=5.5

Nhưng nếu điểm thi của bạn lại là như sau:
  • Fluency & Coherence: 6
  • Lexical Resource: 6
  • Grammatical range & Accuracy: 5
  • Pronunciation: 6
Thì điểm trung bình của bạn vẫn là 5.5 (do 5.75 bị kéo xuống 5.5). Luật làm tròn xuống này là để cân đối với lúc tính điểm trung bình của 4 kĩ năng Listening - Reading - Writing - Speaking sẽ làm tròn 0.75 lên 1.0.


3. IELTS Speaking Test - Part 1

Phần thi Speaking diễn ra trong khoảng từ 11-14 phút, với tổng cộng 3 parts. Bạn sẽ làm bài thi ở dạng vấn đáp với 1 giám khảo.

Part 1 kéo dài từ 4-5 phút. Bạn sẽ trả lời khoảng 14 câu hỏi.

Nếu bạn trả lời quá cụt ngủn (kiểu "Yes/No."), thì sẽ có 3 vấn đề nảy sinh. Thứ nhất là bạn sẽ bị trừ điểm ở phần Fluency & Coherence, vì một tiêu chí quan trọng là bạn phải nói được đủ dài. Thứ hai là bạn lại mất điểm tiếp ở phần Lexical Resources và Grammar, bởi vì bạn không thể hiện được gì khác ngoài mấy từ đơn. Cuối cùng, nhiệm vụ của giám khảo là ép bạn nói tối thiểu hết 4 phút, do đó, ông ta sẽ hỏi thêm, và số lượng câu hỏi trong riêng part 1 có thể lên đến 18 câu. Cho nên dù bạn có cố né tránh thì cũng không thoát được.

Giám khảo sẽ chuẩn bị sẵn các bộ câu hỏi, mỗi bộ 4 câu. Trình tự câu hỏi như sau:
  • Hello, what's your name? (Tất nhiên giám khảo đã biết tên bạn khi kiểm tra CMND, nhưng bạn vẫn cần trả lời cho hợp phép. Đừng vặn lại.)
  • Do you work or study? (Đây là câu hỏi bắt buộc. Bạn phải trả lời thẳng vào vấn đề rằng "I work for ABC Corporation/ I study in XYZ University". Không được đi vòng vo kiểu "Yes, I'm currently a student").
  • Bộ 4 câu hỏi kế tiếp phụ thuộc vào đáp án của bạn ở câu trước. Nếu bạn đang đi làm thì chủ đề sẽ là về Work. Nếu bạn đáp rằng bạn đang đi học thì chủ đề là Education.
  • Bộ 4 câu hỏi tiếp theo tiếp tục xoáy vào các vấn đề quen thuộc đối với bạn. Giám khảo có thể hỏi tiếp về chủ đề Work/Education, nhưng họ cũng có thể yêu cầu bạn trả lời về Accomodation (nơi sinh sống)/Family (gia đình)/ect.
  • Bộ 4 câu hỏi cuối cùng sẽ vượt ra khỏi những câu trên, nhưng vẫn chỉ yêu cầu hiểu biết cơ bản. Thường gặp nhất thì bạn sẽ phải trả lời về sở thích cá nhân, và khi đó bạn sẽ bị hỏi thêm về chủ đề đó (Sports/Musics/Movies/ect). Đôi khi giám khảo sẽ hỏi bạn bằng những chủ đề lạ hơn một chút. Ví dụ mình từng bị hỏi rằng "What do you like better, night or day?" Do mình trả lời là "night" nên 3 câu tiếp theo được hỏi về sao trời, mặt trăng, và hiểu biết của mình về thiên văn học hồi còn ở trường phổ thông.

Mục tiêu của phần này là để khởi động và để kiểm tra xem bạn có khả năng duy trì được một cuộc hội thoại đơn giản hay không. Tuy nhiên part 1 là cơ hội để bạn tạo ấn tượng tốt với giám khảo, bởi vì nếu bạn trả lời quá tệ, bạn sẽ rất khó ăn điểm ở các phần sau, vì những lí do sau:
  • Vốn dĩ chủ đề của part 1 đã quá đơn giản, và thậm chí bạn có thể học thuộc lòng đáp án từ trước rồi. Nếu bạn vẫn còn ấp úng thì giám khảo sẽ có cảm tưởng rằng "thằng này chỉ đáng 5.0". Và thế là ở các phần sau, họ sẽ chỉ chăm chăm nhìn vào tiêu chí của Band 4-5 để đánh giá, thay vì Band 6-7.
  • Chỉ cần nghe 1 part là đủ để đánh giá được hạng mục Fluency cũng như Pronunciation của bạn ra sao. Và như vậy, 50% số điểm Speaking của bạn cũng bị chốt luôn.
  • Bị khớp ngay ở phần đầu sẽ làm tâm lí bạn đi xuống và khó lòng tập trung gỡ điểm ở part 2 và part 3.
Và vì thế, mình khuyên các bạn tập trung học tốt ngay từ part 1 - phần thi của những câu hỏi dành cho học sinh tiểu học/trung học. Tuy nhiên đừng chăm chăm học thuộc lòng cả câu hỏi lẫn đáp án, vì nếu giám khảo đánh hơi thấy điều này, họ sẽ đổi chủ đề hỏi. Cũng đừng cố trả lời quá dài cho 1 câu hỏi, vì giám khảo phải hỏi bạn ít nhất 12 câu. Thông thường bạn chỉ cần 20-25 giây cho một câu trả lời.

Bạn không cần quan tâm đến độ chân thực của câu trả lời, nói cách khác, bạn có thể nói dối cũng được, miễn là nó phải khớp với các câu trả lời trước đó. Tuy nhiên đột ngột bịa chuyện thì rất là khó, mình khuyên các bạn chỉ nên dừng lại ở mức độ fabrication, tức là tô vẽ thêm cho câu trả lời có vẻ màu sắc, chứ đừng phịa ra cái gì quá phi lí.

Trước khi kết thúc part 1, mình có thêm một mẹo cho các bạn. Ngữ pháp được yêu cầu ở part 1 hầu hết là hiện tại đơn (Present simple), chỉ thỉnh thoảng mới có thêm quá khứ đơn hoặc tương lai đơn. Tuy nhiên, bạn hãy sử dụng hiện tại hoàn thành (Present perfect) hoặc hiện tại hoàn thành tiếp diễn (Present perfect continuous) nếu có thể. Present perfect tense được dân bản xứ sử dụng khá nhiều, và nó sẽ giúp bạn thêm điểm ở hạng mục Grammatical range & Accuracy.


4. IELTS Speaking Test - Part 2

Ở phần này, bạn sẽ được cho 1 topic, với chủ đề thường là mô tả một cá nhân/sự kiện/sự vật. Sau đó bạn sẽ được cho 1 phút, và giấy bút để sắp xếp ý tứ. Cuối cùng, bạn sẽ phải độc thoại từ 1-2 phút.

Đề thi thường có kèm mấy câu "gợi ý", kiểu như sau:

Topic: Describe a happy childhood event.

You should say:
  • When it happened
  • Who was involved
  • How you felt at the time
  • Explain why you remember this particular occasion.

Bạn không cần phải trả lời đủ hết 4 câu hỏi gợi ý. Tuy nhiên trong đa số trường hợp thì chúng sẽ giúp bạn đảm bảo được mức điểm kha khá ở hạng mục Fluency & Coherence.

Lời khuyên đầu tiên là hãy tận dụng đủ 1 phút sắp xếp ý. Thời gian này chỉ đủ để bạn viết hơn chục từ, nên khi viết ý tưởng, bạn chỉ cần viết ra những từ đơn (tốt nhất là viết tắt), đừng cố viết cả câu đầy đủ với những giới từ/mạo từ.

Nói chung thì có 2 cách để lên bố cục:

Cách 1: Trả lời lần lượt 4 câu hỏi gợi ý. Cách này có cái lợi là đòi hỏi ít thời gian sắp xếp ý tưởng. Nhược điểm là đôi lúc thứ tự của các câu hỏi này khá lung tung, dẫn đến việc bài nói của bạn bị thiếu mạch lạc.

Cách 2: Sắp xếp bố cục bài nói theo 1 thứ tự mà bạn đã chuẩn bị sẵn. Theo mình thì thứ tự tốt nhất là như sau:
  • Introduction
  • Past
  • Description
  • Opinion
  • Future
Cái hay của bố cục này là nó đi thẳng vào trọng tâm yêu cầu của Speaking Part 2 - thì quá khứ đơn. Mục Future ở đây có thể hiểu là những dự định trong tương lai của bạn, và nó là mục "thừa giấy vẽ voi". Tức là nếu bạn còn thừa nhiều thời gian thì nói nốt cho đủ 2 phút, còn nếu sắp hết giờ rồi, thì bỏ qua mục này cũng không sao cả.

Để không bị trừ điểm ở mục Fluency & Coherence, bạn phải nói tối thiểu 1 phút rưỡi. Sau khi hoàn thành bài nói, bạn có thể chốt hạ bằng cách nói nốt "That was the end of my speech". Đừng im lặng và để cho giám khảo "tự hiểu", vì họ sẽ ngay lập tức trừ điểm bạn vì tội "ngập ngừng".

Bạn có thể tỏ ra tài giỏi và nói cho đến hết 2 phút thì thôi. Nếu bạn nói lố giờ thì giám khảo sẽ yêu cầu bạn dừng ngay lập tức. Bạn sẽ không bị trừ điểm vì đã nói lố vài giây, nên nói dài ra một chút thì vẫn hơn là ngắn.

Giám khảo được phép hỏi thêm bạn từ 1 đến 2 câu hỏi, nếu còn thừa thời gian. Theo lời khuyên của thầy Jim Comeau thì bạn nên nói trong 1 phút 45 giây, tức là vừa đủ để bạn trả lời thêm câu hỏi phụ, và qua đó kiếm thêm chút điểm. Ngoài ra việc kết thúc sớm một chút sẽ giúp bạn có thời gian để chốt hạ bài nói bằng một câu kết luận, và như vậy thì sẽ tăng điểm Coherence.


5. IELTS Speaking Test - Part 3

Part 3 Speaking kéo dài trong 4-5 phút. Giám khảo sẽ hỏi bạn từ 4-5 câu. Đáp án cho mỗi câu hỏi của bạn sẽ dài khoảng 1 phút nói hoặc hơn chút xíu, tức là dài gấp 3 so với câu hỏi ở part 1.

Chủ đề của part 3 thường có liên quan lỏng lẻo đến part 2. Ví dụ nếu part 2 bạn bị hỏi về một thắng cảnh tự nhiên, thì sang part 3 bạn có thể bị hỏi về bảo vệ môi trường. Nét khác biệt nhất của part 3 là giám khảo sẽ không còn hỏi bạn về những thứ mà bạn nắm rõ nữa, mà về các vấn đề khoa học xã hội. Do đó để hoàn thành tốt phần thi này, bạn cũng cần có vốn kiến thức nhất định.

Ví dụ 1 bộ câu hỏi part 3, với chủ đề Environment:
  1. Is water pollution a problem in your country?
  2. What are some of the causes of water pollution?
  3. What can individuals do to try and ensure water is kept clean?
  4. Do you think problems with the cleanliness of water will improve in the future?
Nếu như trọng tâm ngữ pháp của part 1 là hiện tại đơn, part 2 là quá khứ đơn, thì part 3 xoáy vào thì tương lai đơn. Phần thi này đòi hỏi bạn phải thể hiện khả năng đưa ra nhận xét của mình về những thứ có thể xảy ra trong tương lai. Nhìn lại câu hỏi thứ 3 và thứ 4 ở trên thì bạn sẽ thấy ngay.

Kĩ năng được đòi hỏi nhiều nhất ở part 3 là speculation - khả năng dự đoán và đánh giá. Để nói tốt được phần này thì bạn phải biết sử dụng Cautious Language - những từ ngữ mang tính chất mềm dẻo, thể hiện ý nghĩ của cá nhân bạn, chứ không cố áp đặt hay cố diễn đạt sự thật hiển nhiên.

Ví dụ với câu hỏi và đáp án sau (chú ý những từ được in đậm):

Q: “How do you think your city will change in the next 20 years?

A: "That’s a tough question and one I haven’t thought about before. I guess it might be pretty much the same as it is now. Although now I come to think of it, there are a lot of new industries that have been set up there recently and people want to move there. Just to give you one example: in my own street at least 10 new houses have been built in the last 2 years alone. So, I suppose it may grow substantially in the next 20 years.“

Phần 3 này cũng là cơ hội cuối cùng để bạn thể hiện vốn từ vựng cũng như ngữ pháp của mình. Cố gắng làm cho cấu trúc câu đa dạng thông qua việc sử dụng relative clauses, cohesive devices, ect.

PS: Bổ sung thêm một lưu ý là bạn nói tiếng Anh giọng Mĩ hay Anh đều ok hết, giám khảo không có quyền bắt bẻ. Kể cả khi bạn có mix 2 giọng Mĩ và Anh lại cũng chẳng sao, điều đó hoàn toàn không ảnh hưởng đến hạng mục Pronunciation trừ khi bạn hướng đến điểm 9.0.
 
Last edited:

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Cảm ơn huynh @walrus.
Tuy huynh nói là còn thiếu sót nhưng với một bài chia sẻ kinh nghiệm trên mạng thì đã quá tỉ mỉ rồi.
Ban đầu mình muốn viết 1 guide toàn tập về kì thi IELTS, nhưng cuối cùng lại bỏ ngang vì có quá nhiều vấn đề, khiến mình không biết nên bắt đầu từ đâu. Có những thứ khá quan trọng trong kì thi IELTS nói chung và Speaking nói riêng, ví dụ như paraphrase hay collocation, nhưng có lẽ phải để sang một bài viết khác vậy.
 

deeno12701

Phàm Nhân
Ngọc
735,94
Tu vi
0,00
Ban đầu mình muốn viết 1 guide toàn tập về kì thi IELTS, nhưng cuối cùng lại bỏ ngang vì có quá nhiều vấn đề, khiến mình không biết nên bắt đầu từ đâu. Có những thứ khá quan trọng trong kì thi IELTS nói chung và Speaking nói riêng, ví dụ như paraphrase hay collocation, nhưng có lẽ phải để sang một bài viết khác vậy.
huynh có tổng quan Toiec không, đệ đang đuối với toiec đây :bamdap:
 

nila32

Phàm Nhân
Ngọc
89,84
Tu vi
0,00
Ban đầu mình muốn viết 1 guide toàn tập về kì thi IELTS, nhưng cuối cùng lại bỏ ngang vì có quá nhiều vấn đề, khiến mình không biết nên bắt đầu từ đâu. Có những thứ khá quan trọng trong kì thi IELTS nói chung và Speaking nói riêng, ví dụ như paraphrase hay collocation, nhưng có lẽ phải để sang một bài viết khác vậy.
Rất mong đợi những bài viết tiếp theo của huynh. :colen:
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
huynh có tổng quan Toiec không, đệ đang đuối với toiec đây :bamdap:
Mình thi TOEIC cũng từ khá lâu rồi (cuối năm 2013), nên cũng không còn nhớ mẹo mực lắm. Nhưng có 1 cái quan trọng của kì thi TOEIC là nó khong đòi hỏi kĩ năng nói và viết như TOEFL/IELTS, cho nên bạn chỉ cần học vẹt thì cũng có thể đạt điểm cao được. Cái khó duy nhất của TOEIC là yêu cầu vốn từ vựng nhiều, mà cái đó thì tự bạn phải học chứ không ai giúp được.

Hồi đó mình cũng có đi học 1 lớp (của cô Đỗ Dung ĐHSPNN) để lấy động lực đi thi, nhưng mà các cô giáo cũng chỉ quanh quẩn dạy những thứ ngữ pháp và từ mới thông dụng, mà mấy thứ đó thì google rồi tự học ở nhà còn hơn.
 

walrus

Phàm Nhân
Expert Translator
Ngọc
2.453,42
Tu vi
0,00
Mình đã bổ sung cho đầy đủ về quy tắc chấm điểm Speaking. Ngoài ra mình cũng đổi tên bài viết thành "Tổng quan về IELTS Speaking Test", vì thực ra thế này cũng chưa thể tính là "chi tiết".

Lần tới mình sẽ nói về các sai lầm hay gặp phải trong phần thi Speaking trong một bài viết riêng.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top