Note: Bài viết dưới đây hoàn toàn không phải sự sáng tạo của mình. Nó là sự tổng hợp từ bài giảng của thầy Jim Comeau. Nhân đây xin gửi lời cảm ơn tới thầy, vị giáo viên tiếng Anh tốt nhất mà mình từng biết.
Học sinh VN thường chỉ chú tâm vào từ ngữ khi nói tiếng Anh (nói cái gì?) hơn là "nói như thế nào". Đây là lí do khiến ở VN có nhiều giáo viên nước ngoài để dạy Speaking đến thế (thầy Jim có nói rằng các giáo viên bản xứ gọi VN là Lalaland – đất nước của những học sinh vui vẻ, ngoan ngoãn, thậm chí còn tặng quà cho thầy cô vào tháng 11, nhưng đếch bao giờ tiến bộ, và vì thế cứ nộp tiền để đi học tiếp).
Cho dù các bạn nói tiếng Anh với ngữ pháp chuẩn xác, vốn từ cao siêu mỹ học, nhưng phát âm sai, ngữ điệu sai, thì cũng chẳng ai hiểu được. Do đó chúng ta cần tập trung vào cách nói tiếng Anh, và để làm được điều đó, cần thành thạo 7 kĩ năng sau:
Trong số này thì trọng âm là quan trọng nhất, vì vai trò của nó tương tự dấu thanh trong tiếng Việt. Trọng âm làm thay đổi gần như hoàn toàn cách phát âm của từ, và đôi khi cả nghĩa nữa (ví dụ PREsent – món quà vs preSENT – trình bày). Ở đây kí hiệu việc lên giọng bằng cách VIẾT HOA, và xuống giọng bằng màu đỏ.
Dưới đây sẽ nói về các vấn đề thường gặp và cách sửa chữa với từng loại kĩ năng.
1. Trọng âm
Nếu các bạn để ý phần kí âm khi tra từ điển, các bạn sẽ thấy 1 dấu phẩy (ví dụ kí âm của "sensational" là /sen'seɪʃənl/). Đó là kí hiệu của trọng âm.
Phần nào có trọng âm thì được nói chậm hơn, to hơn và giọng cao hơn một chút. Ví dụ như từ "sensational" sẽ được đọc thành "senSAtional", trong đó cụm "SA", với phát âm là /'seɪ/, có chứa trọng âm. Hậu tố -tional được kí hiệu xuống giọng bởi vì sau khi lên cao thì tự khắc các bạn cần phải đi xuống.
Nếu tinh ý khi đọc bản kí âm các bạn sẽ thấy phần đầu của từ sensational chỉ có 1 âm đọc (e của sen-), phần đuôi (a của -nal) còn không được đọc cho đủ nguyên âm, trong khi phần chứa trọng âm (a của -sa-) lại được đọc thành 2 âm tiết (eɪ). Cái này chính là sự thể hiện của quy tắc trọng âm: Chỗ nào có trọng âm thì sẽ được đọc dài hơn và do đó chứa đựng nhiều nguyên âm đọc hơn các cụm khác.
Với từ ngữ 2 âm tiết, danh từ sẽ có trọng âm ở đầu, còn động và tính từ thì trọng âm ở cuối. Đây là cách phân biệt 1 số từ có 2 nghĩa như present. Danh từ "hiện tại" được đọc là "PREsent", còn động từ "giới thiệu" được đọc là preSENT.
Một số từ dù được viết không hoàn toàn giống nhau, nhưng học sinh VN hay đọc lẫn lộn cũng là do không chú ý trọng âm. Ví dụ ecoNOmics với eCOnomy.
Một thứ có vẻ vụn vặt nhưng cần thiết là việc dùng trọng âm trong số đếm. 60 đọc là SIXty. Tuy nhiên 16 đọc là sixTEEN. Tương tự với 70/17, và các cặp số còn lại.
2. Tốc độ
Do không quen với việc t.ư duy bằng tiếng Anh, đa số học sinh mất nhiều thời gian để nghĩ ra từ mà nói, lúc nghĩ được thì nói như gió để bù lại. Khi chưa giỏi mà nói nhanh thì khá là tệ vì thật khó để kiểm soát được các sai lầm trong lúc nói với tốc độ như thế. Tộc độ nói quá cao làm hỏng hầu hết các kĩ năng còn lại (chỉ riêng Linking sounds đòi hỏi người nói phải nhanh – cái đó sẽ được bàn sau).
Do đó hãy luyện tập bằng cách đọc 1 văn bản một cách chậm rãi trước. Nếu không làm tốt nổi khâu này thì làm sao mà đối đáp – vừa nghĩ vừa nói – được?
Nếu có dụng cụ ghi âm như smartphone thì thu âm lại bài đọc, và nghe lại để sửa lỗi. Sau đó làm lại.
3. Âm lượng
Bất kể khi tự học hay giao tiếp thì cũng không nên nói bé. Tai bản thân không nghe rõ lời thì không sửa lỗi được.
4. Phát âm
Mục này chỉ nói riêng về cách phát âm các phụ âm. Về điểm này thì tiếng Việt và tiếng Anh có 1 số điểm khác nhau đáng chú ý:
· Tiếng Anh không có âm ‘’t’’ nặng như tiếng Việt hay tiếng Nga. Âm ‘’t’’ của họ gần như ‘’th’’ của mình.
· ‘Âm ‘’th’’ trong tiếng Anh đươc phát âm một cách rõ ràng bằng cách đẩy đầu lưỡi quá kẽ răng. Tức là khi phát âm ‘’think’’, có thể có nước bọt bắn ra (haha).
· Phụ âm trong tiếng Anh cần được phát âm rõ ràng khi nó ở cuối của từ. Từ ‘’FACEbook’’ cần được phát âm rõ âm ‘’s’’ (của kí tự c) và âm ‘’k’’ (của kí tự k). Phấy-s-bục-k, không phải Phây-búc. Cái này khá quan trọng trong việc phân biệt giữa "can" và "can't".
· Chữ ‘’x’’ được phát âm dưới 2 dạng, hoặc là ‘’ks’’ (trong từ box), hoặc là ‘’gz’’ (trong từ exam). Ví dụ nổi tiếng nhất là từ ‘’next’’, được 99% học sinh VN phát âm sai. Trong từ này có kèm cả âm ‘’k’’ lẫn âm ‘’t’’.
Trong số các phụ âm thì ‘’s’’ và ‘’z’’ có lẽ là đáng chú ý nhất. Thứ nhất vì việc thêm ‘’s’’ ở cuối danh từ để biến nó thành số nhiều là điều phải làm thường xuyên, và thiếu số nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến ngữ nghĩa. Thứ 2 là đôi lúc học sinh VN không phân biệt được khi nào dùng ‘’s’’ hay ‘’z’’.
Để hiểu tường tận về vụ này, cần biết phân biệt Voiceless và Voiced Consonants.
Voiceless Consonants là 7 phụ âm sau: F, K, P, S, T, CH, SH. Ngoài ra có thể gộp cả C (được đọc là /s/ hoặc /k/) và X (nếu là âm /ks/). Chúng đươc phát âm nhờ hoạt động của cơ miệng và kẽ răng, do đó được nói nhanh.
Voiced Consonants là các phụ âm khác, như B, D, G... và Z. Chúng được phát âm nhờ sự rung của không khí trong khu vực thanh quản, và được phát âm chậm.
S là Voiceless Consonant, do đó cần được đọc nhanh.
Z là Voiced Consonant, do đó cần được đọc chậm.
Nếu một danh từ có kết thúc bằng Voiceless Consonants, thì chữ S thể hiện số nhiều của nó được đọc đúng là /s/. Ngược lại thì đọc là /z/. Ví dụ cats -> /cats/, flowers -> /flowerz/.
S được đọc là /z/ khi bên cạnh nó không có Voiceless Consonants nào. Ví dụ: wise -> /wize/. Hoặc quay trở về ví dụ flowers như đã nói.
5. Lên/xuống giọng
Trừ với câu hỏi Yes/No (được lên giọng ở cuối câu), còn lại thì người Anh sẽ lên giọng ở đầu câu , và xuống giọng ở cuối câu (Ví dụ: WHERE are you from?).
Để việc xuống giọng ở cuối câu được đơn giản, người ta hay lên giọng ở âm tiết, hoặc từ đứng trước từ đứng cuối câu.
Ví dụ: HE said that at that time he was playing PIAno.
Hoặc: HE said that at that time he was PLAYING piano.
Trong ví dụ trên, từ HE được nói to hơn và cao hơn vì là từ đầu tiên của câu. Từ được nhấn kế tiếp không được nhấn quá mạnh vì tác dụng của nó chỉ là để việc xuống giọng ở âm cuối câu được dễ dàng hơn.
Đến đây lại có 1 cái hay ho là trọng âm của từ có thể mâu thuẫn với lên/xuống giọng. Ở phía trên mình có nói rằng phải xuống giọng nếu đang dùng câu khẳng định. Nhưng ví dụ sau thì lại khác:
HE was STUPID when he was sixTEEN.
(Nhưng HE was STUPID when he was SIXteen. cũng được, đại khái là tùy ý).
Và giờ lại có 1 vấn đề nữa, đó là tại sao trong ví dụ trên lại nhấn ở từ "STUPID" và xuống giọng ở từ "was". Bởi vì nhấn giọng còn là biển chỉ dẫn để người nghe biết được đâu là từ ngữ quan trọng (keyword).
Trong câu trên thì tính từ STUPID đóng vai trò giúp người nghe hiểu nghĩa câu. Việc coi từ nào là keyword là chuyện của mỗi cá nhân và do đó mỗi người có một kiểu lên giọng khác nhau. Do đó các bạn có thể không cần nhấn vào từ "stupid" nếu muốn.
Thêm nữa là những từ chỉ có giá trị về mặt ngữ pháp, chứ không làm thay đổi nghĩa của câu văn (như động từ "to be", giới từ, ect) thì sẽ được xuống giọng.
Lên xuống giọng nhịp nhàng được gọi là Chunking và đây là điều khiến cho người nói thạo có giọng nói trầm bổng hấp dẫn.
6. Nối âm
Đây là kĩ năng đặc biệt nhất, vì để thành thạo được nó, người nói phải nói nhanh. Các kĩ năng còn lại yêu cầu người học nói thật chậm rãi.
Nối âm được thực hiện giữa 1 từ có âm cuối là phụ âm, với từ tiếp theo có âm đầu là nguyên âm. Sau khi nối, phụ âm cuối của từ đầu tiên sẽ được chuyển cho từ thứ 2, tức là chúng ta có 2 từ ngữ đều bắt đầu bằng phụ âm.
Ví dụ cơ bản nhất là ‘’thank you’’. Từ lớp 3 chúng ta đã biết là nó được phát âm là ‘’thanh kiu’’. Dưới đây là các ví dụ hay gặp khác:
Sometimes I -> Sometime Zi
Located in -> Locate din
Which is -> Whi Chis
Một trường hợp đặc biệt là khi phụ âm cuối của từ thứ nhất là âm ‘’t’’. Tiếng Anh kiểu Mĩ và Canada sẽ biến âm này thành ‘’d’’
Ví dụ ‘’without it’’ trong tiếng Anh Anh là ‘’withou tit’’
Tiếng Anh Mĩ là ‘’withou dit’’
Học sinh VN hay phát âm sai là ‘’wi out it’’
Trường hợp đặc biệt nữa là khi nguyên âm đứng đầu từ thứ 2 là ‘’y’’. Đây không thuần túy là một nguyên âm, nên đôi khi nó không được nối âm, hoặc là sẽ nối theo một cách đặc biệt:
don’t you -> don chou
what you have -> wha chou have
7. Ngắt câu
Đây là kĩ năng dễ dàng nhất. Nghỉ một chút khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm câu Thời gian nghỉ sẽ dài hơn một chút khi ngắt đoạn văn. Có thể nghỉ giữa câu nếu muốn lấy hơi.
LUYỆN TẬP
Sau khi biết về 7 kĩ năng thì cái các bạn cần là tôn trọng tất cả bọn chúng. Nói cách khác, cần phải bắt đầu bằng cách luyện tập từng kĩ năng, không được đi đường tắt
In một bài đọc (chọn cái mà bạn thích) ra 4 tờ giấy.
Lời khuyên của mình là dành khoảng 15 phút mỗi ngày. Trong mỗi 15 phút đó chỉ dùng để luyện tập một kĩ năng. Đọc vào di động, ghi âm rồi nghe lại để xem mình có bỏ sót chỗ nào không. Nếu còn bỏ sót thì làm lại.
À, và có 1 cách hay hơn nữa để luyện nối âm. Đó là nghe các bài hát tiếng Anh và chú ý những chỗ luyến láy.
Học sinh VN thường chỉ chú tâm vào từ ngữ khi nói tiếng Anh (nói cái gì?) hơn là "nói như thế nào". Đây là lí do khiến ở VN có nhiều giáo viên nước ngoài để dạy Speaking đến thế (thầy Jim có nói rằng các giáo viên bản xứ gọi VN là Lalaland – đất nước của những học sinh vui vẻ, ngoan ngoãn, thậm chí còn tặng quà cho thầy cô vào tháng 11, nhưng đếch bao giờ tiến bộ, và vì thế cứ nộp tiền để đi học tiếp).
Cho dù các bạn nói tiếng Anh với ngữ pháp chuẩn xác, vốn từ cao siêu mỹ học, nhưng phát âm sai, ngữ điệu sai, thì cũng chẳng ai hiểu được. Do đó chúng ta cần tập trung vào cách nói tiếng Anh, và để làm được điều đó, cần thành thạo 7 kĩ năng sau:
- Stress (trọng âm)
- Speed (tốc độ)
- Volume (âm lượng)
- Pronunciation (phát âm)
- Pitch change (lên xuống giọng)
- Linking Sounds (nối âm)
- Pausing (ngắt câu)
Trong số này thì trọng âm là quan trọng nhất, vì vai trò của nó tương tự dấu thanh trong tiếng Việt. Trọng âm làm thay đổi gần như hoàn toàn cách phát âm của từ, và đôi khi cả nghĩa nữa (ví dụ PREsent – món quà vs preSENT – trình bày). Ở đây kí hiệu việc lên giọng bằng cách VIẾT HOA, và xuống giọng bằng màu đỏ.
Dưới đây sẽ nói về các vấn đề thường gặp và cách sửa chữa với từng loại kĩ năng.
1. Trọng âm
Nếu các bạn để ý phần kí âm khi tra từ điển, các bạn sẽ thấy 1 dấu phẩy (ví dụ kí âm của "sensational" là /sen'seɪʃənl/). Đó là kí hiệu của trọng âm.
Phần nào có trọng âm thì được nói chậm hơn, to hơn và giọng cao hơn một chút. Ví dụ như từ "sensational" sẽ được đọc thành "senSAtional", trong đó cụm "SA", với phát âm là /'seɪ/, có chứa trọng âm. Hậu tố -tional được kí hiệu xuống giọng bởi vì sau khi lên cao thì tự khắc các bạn cần phải đi xuống.
Nếu tinh ý khi đọc bản kí âm các bạn sẽ thấy phần đầu của từ sensational chỉ có 1 âm đọc (e của sen-), phần đuôi (a của -nal) còn không được đọc cho đủ nguyên âm, trong khi phần chứa trọng âm (a của -sa-) lại được đọc thành 2 âm tiết (eɪ). Cái này chính là sự thể hiện của quy tắc trọng âm: Chỗ nào có trọng âm thì sẽ được đọc dài hơn và do đó chứa đựng nhiều nguyên âm đọc hơn các cụm khác.
Với từ ngữ 2 âm tiết, danh từ sẽ có trọng âm ở đầu, còn động và tính từ thì trọng âm ở cuối. Đây là cách phân biệt 1 số từ có 2 nghĩa như present. Danh từ "hiện tại" được đọc là "PREsent", còn động từ "giới thiệu" được đọc là preSENT.
Một số từ dù được viết không hoàn toàn giống nhau, nhưng học sinh VN hay đọc lẫn lộn cũng là do không chú ý trọng âm. Ví dụ ecoNOmics với eCOnomy.
Một thứ có vẻ vụn vặt nhưng cần thiết là việc dùng trọng âm trong số đếm. 60 đọc là SIXty. Tuy nhiên 16 đọc là sixTEEN. Tương tự với 70/17, và các cặp số còn lại.
2. Tốc độ
Do không quen với việc t.ư duy bằng tiếng Anh, đa số học sinh mất nhiều thời gian để nghĩ ra từ mà nói, lúc nghĩ được thì nói như gió để bù lại. Khi chưa giỏi mà nói nhanh thì khá là tệ vì thật khó để kiểm soát được các sai lầm trong lúc nói với tốc độ như thế. Tộc độ nói quá cao làm hỏng hầu hết các kĩ năng còn lại (chỉ riêng Linking sounds đòi hỏi người nói phải nhanh – cái đó sẽ được bàn sau).
Do đó hãy luyện tập bằng cách đọc 1 văn bản một cách chậm rãi trước. Nếu không làm tốt nổi khâu này thì làm sao mà đối đáp – vừa nghĩ vừa nói – được?
Nếu có dụng cụ ghi âm như smartphone thì thu âm lại bài đọc, và nghe lại để sửa lỗi. Sau đó làm lại.
3. Âm lượng
Bất kể khi tự học hay giao tiếp thì cũng không nên nói bé. Tai bản thân không nghe rõ lời thì không sửa lỗi được.
4. Phát âm
Mục này chỉ nói riêng về cách phát âm các phụ âm. Về điểm này thì tiếng Việt và tiếng Anh có 1 số điểm khác nhau đáng chú ý:
· Tiếng Anh không có âm ‘’t’’ nặng như tiếng Việt hay tiếng Nga. Âm ‘’t’’ của họ gần như ‘’th’’ của mình.
· ‘Âm ‘’th’’ trong tiếng Anh đươc phát âm một cách rõ ràng bằng cách đẩy đầu lưỡi quá kẽ răng. Tức là khi phát âm ‘’think’’, có thể có nước bọt bắn ra (haha).
· Phụ âm trong tiếng Anh cần được phát âm rõ ràng khi nó ở cuối của từ. Từ ‘’FACEbook’’ cần được phát âm rõ âm ‘’s’’ (của kí tự c) và âm ‘’k’’ (của kí tự k). Phấy-s-bục-k, không phải Phây-búc. Cái này khá quan trọng trong việc phân biệt giữa "can" và "can't".
· Chữ ‘’x’’ được phát âm dưới 2 dạng, hoặc là ‘’ks’’ (trong từ box), hoặc là ‘’gz’’ (trong từ exam). Ví dụ nổi tiếng nhất là từ ‘’next’’, được 99% học sinh VN phát âm sai. Trong từ này có kèm cả âm ‘’k’’ lẫn âm ‘’t’’.
Trong số các phụ âm thì ‘’s’’ và ‘’z’’ có lẽ là đáng chú ý nhất. Thứ nhất vì việc thêm ‘’s’’ ở cuối danh từ để biến nó thành số nhiều là điều phải làm thường xuyên, và thiếu số nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến ngữ nghĩa. Thứ 2 là đôi lúc học sinh VN không phân biệt được khi nào dùng ‘’s’’ hay ‘’z’’.
Để hiểu tường tận về vụ này, cần biết phân biệt Voiceless và Voiced Consonants.
Voiceless Consonants là 7 phụ âm sau: F, K, P, S, T, CH, SH. Ngoài ra có thể gộp cả C (được đọc là /s/ hoặc /k/) và X (nếu là âm /ks/). Chúng đươc phát âm nhờ hoạt động của cơ miệng và kẽ răng, do đó được nói nhanh.
Voiced Consonants là các phụ âm khác, như B, D, G... và Z. Chúng được phát âm nhờ sự rung của không khí trong khu vực thanh quản, và được phát âm chậm.
S là Voiceless Consonant, do đó cần được đọc nhanh.
Z là Voiced Consonant, do đó cần được đọc chậm.
Nếu một danh từ có kết thúc bằng Voiceless Consonants, thì chữ S thể hiện số nhiều của nó được đọc đúng là /s/. Ngược lại thì đọc là /z/. Ví dụ cats -> /cats/, flowers -> /flowerz/.
S được đọc là /z/ khi bên cạnh nó không có Voiceless Consonants nào. Ví dụ: wise -> /wize/. Hoặc quay trở về ví dụ flowers như đã nói.
5. Lên/xuống giọng
Trừ với câu hỏi Yes/No (được lên giọng ở cuối câu), còn lại thì người Anh sẽ lên giọng ở đầu câu , và xuống giọng ở cuối câu (Ví dụ: WHERE are you from?).
Để việc xuống giọng ở cuối câu được đơn giản, người ta hay lên giọng ở âm tiết, hoặc từ đứng trước từ đứng cuối câu.
Ví dụ: HE said that at that time he was playing PIAno.
Hoặc: HE said that at that time he was PLAYING piano.
Trong ví dụ trên, từ HE được nói to hơn và cao hơn vì là từ đầu tiên của câu. Từ được nhấn kế tiếp không được nhấn quá mạnh vì tác dụng của nó chỉ là để việc xuống giọng ở âm cuối câu được dễ dàng hơn.
Đến đây lại có 1 cái hay ho là trọng âm của từ có thể mâu thuẫn với lên/xuống giọng. Ở phía trên mình có nói rằng phải xuống giọng nếu đang dùng câu khẳng định. Nhưng ví dụ sau thì lại khác:
HE was STUPID when he was sixTEEN.
(Nhưng HE was STUPID when he was SIXteen. cũng được, đại khái là tùy ý).
Và giờ lại có 1 vấn đề nữa, đó là tại sao trong ví dụ trên lại nhấn ở từ "STUPID" và xuống giọng ở từ "was". Bởi vì nhấn giọng còn là biển chỉ dẫn để người nghe biết được đâu là từ ngữ quan trọng (keyword).
Trong câu trên thì tính từ STUPID đóng vai trò giúp người nghe hiểu nghĩa câu. Việc coi từ nào là keyword là chuyện của mỗi cá nhân và do đó mỗi người có một kiểu lên giọng khác nhau. Do đó các bạn có thể không cần nhấn vào từ "stupid" nếu muốn.
Thêm nữa là những từ chỉ có giá trị về mặt ngữ pháp, chứ không làm thay đổi nghĩa của câu văn (như động từ "to be", giới từ, ect) thì sẽ được xuống giọng.
Lên xuống giọng nhịp nhàng được gọi là Chunking và đây là điều khiến cho người nói thạo có giọng nói trầm bổng hấp dẫn.
6. Nối âm
Đây là kĩ năng đặc biệt nhất, vì để thành thạo được nó, người nói phải nói nhanh. Các kĩ năng còn lại yêu cầu người học nói thật chậm rãi.
Nối âm được thực hiện giữa 1 từ có âm cuối là phụ âm, với từ tiếp theo có âm đầu là nguyên âm. Sau khi nối, phụ âm cuối của từ đầu tiên sẽ được chuyển cho từ thứ 2, tức là chúng ta có 2 từ ngữ đều bắt đầu bằng phụ âm.
Ví dụ cơ bản nhất là ‘’thank you’’. Từ lớp 3 chúng ta đã biết là nó được phát âm là ‘’thanh kiu’’. Dưới đây là các ví dụ hay gặp khác:
Sometimes I -> Sometime Zi
Located in -> Locate din
Which is -> Whi Chis
Một trường hợp đặc biệt là khi phụ âm cuối của từ thứ nhất là âm ‘’t’’. Tiếng Anh kiểu Mĩ và Canada sẽ biến âm này thành ‘’d’’
Ví dụ ‘’without it’’ trong tiếng Anh Anh là ‘’withou tit’’
Tiếng Anh Mĩ là ‘’withou dit’’
Học sinh VN hay phát âm sai là ‘’wi out it’’
Trường hợp đặc biệt nữa là khi nguyên âm đứng đầu từ thứ 2 là ‘’y’’. Đây không thuần túy là một nguyên âm, nên đôi khi nó không được nối âm, hoặc là sẽ nối theo một cách đặc biệt:
don’t you -> don chou
what you have -> wha chou have
7. Ngắt câu
Đây là kĩ năng dễ dàng nhất. Nghỉ một chút khi gặp dấu phẩy hoặc dấu chấm câu Thời gian nghỉ sẽ dài hơn một chút khi ngắt đoạn văn. Có thể nghỉ giữa câu nếu muốn lấy hơi.
LUYỆN TẬP
Sau khi biết về 7 kĩ năng thì cái các bạn cần là tôn trọng tất cả bọn chúng. Nói cách khác, cần phải bắt đầu bằng cách luyện tập từng kĩ năng, không được đi đường tắt
In một bài đọc (chọn cái mà bạn thích) ra 4 tờ giấy.
- Tờ đầu tiên dùng để luyện lên xuống giọng và ngắt câu. Dùng kí hiệu mũi tên lên hoặc xuống để đánh dấu những chỗ lên/xuống giọng. Dùng dấu gạch chéo để biểu thị thời điểm lấy hơi.
- Tờ thứ 2 dùng để luyện nối âm. Kí hiệu nối âm giữa các từ (ví dụ such_as).
- Tờ thứ 3 dùng để luyện S và Z. Gạch chân những chỗ có âm S/Z
- Tờ cuối cùng để luyện trọng âm. Khoanh tròn những chỗ cần nhấn
Lời khuyên của mình là dành khoảng 15 phút mỗi ngày. Trong mỗi 15 phút đó chỉ dùng để luyện tập một kĩ năng. Đọc vào di động, ghi âm rồi nghe lại để xem mình có bỏ sót chỗ nào không. Nếu còn bỏ sót thì làm lại.
À, và có 1 cách hay hơn nữa để luyện nối âm. Đó là nghe các bài hát tiếng Anh và chú ý những chỗ luyến láy.
Last edited: