Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 59: Sứ giả Đại Thanh
Chương 59: Sứ giả Đại Thanh​

Kinh thành Phú Xuân, ngày 22 tháng 10 năm 1805.
Đã bốn năm kể từ ngày đăng cơ. Dạo gần đây, Nguyễn Quang Toản bận tối tăm mặt mũi. Nếu không phải bận vì xử lý quốc sự thì cũng là tham dự lễ động thổ một công trình nào đó hay tiếp kiến đoàn sứ giả của các nước lân bang. Nói đến đoàn sứ giả, phải nói rằng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc từ nghìn năm qua, triều đại mà Toản cùng quần thần của mình tiếp xúc với thế giới bên ngoài là nhiều nhất. Và đây cũng là triều đại mà Việt Nam được nhiều nước biết đến nhất. Chỉ trong bốn năm ngắn ngủi, chiếc ao làng xứ nhược tiểu Á Đông không còn đủ chỗ cho con rồng nghìn năm say ngủ vùng vẫy nữa. Nói như thế không phải điều này là một kỳ tích, một phép lạ. Nó đến từ những cố gắng, những tiền đề của nhiều năm trước. Ban đầu, với chỉ một mốt bang giao ngang hàng duy nhất là Anh Cát Lợi, dĩ nhiên là chưa kể đến các nước chư hầu như Ai Lao, Cam Bốt, ngày nay, hầu như tất cả các nước ở châu Âu đều biết đến tên gọi Việt Nam. Trong số đó, có những nước đã thiết đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cũng có những nước không đặt bang giao mà chỉ là quan sát động thái ở đây, phần đông trong số đó là những đồng minh của Phú Lang Sa. Cũng có nhiều nước bắt đầu cầu viện như Mã Lai, Phi Luật Tân, Miến Điện. Ngay cả một cường quốc mới nổi khác là Phù Tang cũng đặt vấn đề ngoại giao.

Ở nhóm nước châu Âu, mục đích thiết lập ngoại giao của họ chủ yếu là vì những khẩu súng TSG. Chính sự thành công của quân đội Anh Cát Lợi làm người ta ngày càng tò mò về loại vũ khí tiện lợi này. Ngay cả người Phú Lang Sa giờ đây lại càng cảm thấy mối uy hiếp của họ không còn là đối thủ truyền kiếp Anh Cát Lợi nữa mà là một đất nước ở rất xa. Điều này có vẻ rất khó tin. Nhưng trên thực tế, vị Hoàng đế trẻ tuổi Napoleon Bonaparte đang mất dần ưu thế về tay người Anh Cát Lợi cũng bởi đối phương được trang bị loại súng này. À, cũng phải kể thêm loại vũ khí khác nữa chứ, đó là Tên lửa. Như vậy, nếu trường hợp Việt Nam cung cấp cho toàn bộ các nước thuộc liên minh thứ ba hiện tại thì người Phú Lang Sa biết xoay sở thế nào?

Ở khu vực châu Á. Chính hành động bế quan tỏa cảng đã làm cho gã khổng lồ Đại Thanh ngày càng yếu sức. Vậy mà lúc nào họ cũng vỗ ngực xưng mình là Thiên triều, ra sức o ép các nước láng giềng. Sự trỗi dậy của Việt Nam càng làm cho các nước trước đây là chư hầu hay phụ thuộc vào Đại Thanh cảm thấy cần phải có sự thay đổi. Họ liên tục phái các đoàn sứ giả đến đất nước ở vùng cực nam của Đại Thanh này. Họ cho rằng Việt Nam cũng là “đồng bệnh tương liên”. Họ sẽ nhận được sự giúp đỡ của quốc gia quật cường này. Họ muốn biết Việt Nam đã dùng phương pháp nào để dần thoát khỏi sự kềm kẹp của Thiên triều. Và họ đã sai khi cho rằng nước Việt đang dần thoát khỏi sự kềm kẹp này. Thực tế thì Việt Nam đã thoát ra lâu rồi. Đã bốn năm nay, chưa một lần nào vị vua trẻ Nguyễn Quang Toản cho sứ bộ đến yết kiến nhà Đại Thanh. Thế mà, gã khổng lồ kia không thể làm gì được. Có ba lý do dẫn đến việc này. Thứ nhất, họ đang phải lo bình ổn nội loạn Thiên Địa hội. Thứ hai, con cháu Trịnh Thành Công đã tách ra khỏi Thiên triều và thành lập một quốc gia mới với tên gọi Đài Loan đang ngày đêm tìm cách gây rối vùng duyên hải. Và thứ ba, đây cũng là lý do khó chấp nhận nhất, Việt Nam từ ngày lập quốc phải lo toan quá nhiều việc, chưa thể nghỉ ngơi mà đi yết kiến Thiên triều. Và cũng có tin đồn, chính Việt Nam là hậu thuẫn cho hai lý do trên.

Hôm nay, Quang Toản có một vị khách hay nói đúng hơn là một đoàn khách. Chẳng xa lạ gì, đó chính là sứ giả của Đại Thanh mà người dẫn đầu là Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang. Việc tiếp đón y, Toản tỏ ra không mấy mặn mà. Anh cố tình cho Ngô Hùng Quang ngồi đợi trong Thư phòng cả buổi trời vẫn chưa xuất hiện. Chỉ có tiểu Thái, anh chàng Thái giám hầu cận Toản từ những ngày đầu anh đến với thế giới này là xăng xái tiếp đón. Đây thực ra chính là sự xếp đặt của Toản. Anh muốn thông qua tiểu Thái để xem thử thái độ của Ngô Hùng Quang thế nào. Xem ra, y đã mất kiên nhẫn lắm rồi, tiểu Thái nói:

- Sứ giả đại nhân, ngài hãy dùng thêm tách trà này. Có lẽ, Hoàng thượng chắc cũng đã xong việc và đang trên đường đến đây.

“Xoảng” tách trà trên tay tiểu Thái bị Quang hất xuống. Y giận dữ hét:

- Đợi… đợi… Đây là chén trà thứ mười rồi. Thế mà Hoàng thượng của ngươi còn chưa thèm tới. Bận gì thì bận. Nên nhớ, Thiên triều là quan trọng nhất. Cút, mau đi tìm An Nam Vương của nhà ngươi. Bảo hắn lết đến đây gặp ta.

- Sứ giả đại nhân. Dù gì thì việc nước cũng quan trọng. Ngài hãy nghĩ tình lân bang mà bớt giận.

- Cái gì mà lân bang? Các ngươi chỉ là lũ man di. Xứng làm lân bang ngang hàng với Thiên triều chúng ta sao? Mau bảo hắn đến đây gặp ta, dập đầu mà tạ tội.

Đúng lúc này, có tiếng nói phát ra từ bên ngoài thư phòng:

- Cái gì mà man di? Cái gì mà dập đầu tạ tội? Người đâu! Đem hắn ra đánh hai mươi trượng cho trẫm.

- Dạ! Bệ hạ!

Thì ra người tới chính là Toản. Anh không ngần ngại mà sai người đè Ngô Hùng Quang ra đánh hai mươi trượng rõ đau. Ngô Hùng Quang dù là một võ tướng nhưng làm cách nào cũng không thể thoát khỏi bốn tên binh sĩ đang lao tới. Người ta học võ Bình Định từ tấm bé, dù cho chỉ có một người cũng đủ sức dằn co với Quang nói chi ở đây có đến bốn người. Y đành chấp nhận chịu trận mà nhận lãnh hai mươi trượng đau điếng.

Sau khi bị hành pháp, y được đưa đến trước mặt Toản. Anh lúc này bỗng tỏ ra vẻ vô tội:

- Tưởng ai, hóa ra là Ngô đại nhân. Thứ lỗi cho trẫm sai người bắt đánh. Đại nhân cũng hiểu, sỉ nhục quốc thể và khi quân là tội lớn. Trẫm vốn không biết là ngài. Xin thứ lỗi.

- Ngươi… ngươi…

- Người đâu! Mau dìu Ngô đại nhân ngồi xuống.

Nói là dìu y ngồi xuống, thực tế là Quang bị chính bốn tên lính khi nãy xốc lên, đưa đến bên ghế ngồi rồi ấn xuống. Phải biết, y mới bị ăn đòn xong, mông y gần như bị dập nát. Thế thì bây giờ lại còn bị ấn xuống ghế ngồi thì đau phải biết. Y la tru tréo lên. Toản lại nói:

- Ấy chết! Trẫm quên mất là đại nhân mới bị đánh đau ở bàn tọa. Thế này thì ngồi thế nào được. Thôi thì thế này, trẫm ban cho đại nhân nằm vậy.

- Hừ… Ngươi… ngươi dám đối xử với ta như vậy sao? Ngươi không sợ Thiên triều xua quân hỏi tội sao?

- Cái này để trẫm bồi tội sau. Người đâu, đem chiếu đến đây cho Ngô đại nhân nằm.

Nói đoạn, bốn tên lính nọ đem đến một chiếc chiếu. Quang lại bị xốc lên rồi thả xuống chiếu cái bịch trong t.ư thế nằm sấp. Nói thật, thế này thì nhục nhã nào bằng. Lúc này y chẳng khác nào nằm rạp dưới chân Toản như một tên ăn mày hèn mọn. Toản lại nói:

- Đại nhân. Ngài thấy đỡ hơn chưa? Thứ lỗi cho trẫm. Việt Nam vốn rất nghèo. Đáng lý ra phải đem đến đây một chiếc giường để ngài thấy thoải mái. Đáng tiếc, trẫm chỉ có chiếc chiếu hoa này thôi. Không làm mất thời gian nữa. Xin đại nhân vui lòng cho biết ý tứ Thiên triều thế nào khi cử ngài đi sứ sang đây.

- Ngươi... Ngươi... Ái cha...

- Xem ra vết thương của đại nhân không nhẹ. Thôi thì trẫm mời đại nhân về dịch quán nghỉ ngơi vài hôm rồi chúng ta nói sau vậy.

Nói đoạn, Toản không chờ y trả lời mà sai người khiêng về dịch quán. Ngô Hùng Quang trong cơn phẫn uất chỉ biết ú ớ thét “Ngươi... Ngươi...” vậy thôi. Điều này khiến tiểu Thái ở bên cạnh không thể nào dừng được cười nắc nẻ. Lúc này, Nguyễn Văn Tuyết vốn đã đến và đứng ở bên ngoài bước vào. Ông cũng cười nhưng không đến nỗi như anh chàng thái giám. Ông nói:

- Cho đáng đời cái lũ lúc nào cũng rêu rao Thiên triều này nọ.

- Ồ, chú Tuyết, chú thấy hết rồi à?

- Bệ hạ! Thần thấy hết rồi. Thật hả dạ. Nhưng mà, chúng ta như vậy có hơi quá không?

- Không đâu chú. Chúng đáng bị như thế mà. Vả lại, đằng nào thì cũng sắp đến lúc chúng ta cho chúng biết mùi rồi.

- Nhưng kế hoạch là phải đến năm năm. Bây giờ mới đang là năm thứ t.ư. Bệ hạ không thấy sớm quá sao?

- Không đâu. Kế hoạch là chết, người là sống. Hôm trước Mã Kim Đa cho hay người Anh Cát Lợi đã có mặt ở bán đảo Sơn Trà với ba mươi lăm chiến thuyền rồi. Và chúng ta cũng đã tích lũy đầy đủ. Đã đến lúc trở mặt rồi.

Ngô Hùng Quang trở về dịch quán với cái mông bê bết máu. Trong cuộc đời y, có lẽ đây là lần nhục nhã nhất. “Cái lũ An Nam này đúng là man di mọi rợ. Ngay cả sứ giả Thiên triều như ta cũng dám đụng vào. Để rồi xem, khi về đến Đại Thanh, các ngươi chờ xem cơn thịnh nộ của Thiên triều”. Quang tức tối suy nghĩ. “Hiện nay, ta còn ở trên đất chúng, cần phải nhẫn nhịn. Hừ... Chờ xem... Chờ xem...”

Cũng phải mất gần mười ngày, Ngô Hùng Quang mới có thể thoải mái đi lại. Ngô Hùng Quang được mời đến gặp nhà vua. Đây cũng vừa khéo là ngày thiết triều đầu tháng. Y bước vào chính điện lúc mười giờ sáng, khi mà các sự vụ thông thường trong buổi chầu sớm đã xong. Ngô Hùng Quang cùng hai phó sứ bước đến diện kiến Toản. Dường như trận đòn mấy hôm trước chưa đủ để y nhìn thấy rõ vị trí của mình hay thói hống hách, coi trời bằng vung đã ăn sâu vào máu mà phái đoàn Đại Thanh vẫn bước nghênh ngang vào điện.

Đến trước mặt Toản, Ngô Hùng Quang không hề cúi đầu mà chỉ chắp tay trước ngực nói “Bệ hạ vạn an” với điệu bộ giữa hai người bất quá cũng chỉ là ngang hàng nếu không muốn nói là y cao hơn. Toản cũng đáp một câu chiếu lệ rồi nói:

- Ngô đại nhân! Ngài còn đau không? Có thể ngồi được không hay là phải nằm? Hôm nay trẫm có chuẩn bị sẵn giường phòng khi đại nhân không ngồi được.

Nghe thấy lời này, vị Tổng đốc Lưỡng Quảng cảm thấy tức giận, tuy nhiên, y tự kìm lại mà nói:
- Mấy vết thương vặt vãnh này có đáng gì. Không dám phiền lòng Bệ hạ lo lắng. Ta ngồi được.

- Thế thì thật là may quá. Ngài cũng hiểu. Lúc đó trẫm chỉ nghe từ đằng xa có người dám nói Việt Nam là một nước man di và bắt trẫm phải tạ tội gì đó. Ngài cũng biết uy quyền của đế vương nào có thể xúc phạm.

- Ta hiểu. Chuyện cũ bỏ qua. Hôm nay ta đến đây để hỏi, tại sao mấy năm rồi Bệ hạ không đến Thiên triều bái lạy Long nhan?

- Ngô đại nhân. Ngài cũng thấy đó, sự vụ trong nước chưa yên, ngay cả thết triều còn phải mười lăm ngày mới có một buổi thì còn đâu thời gian để đi thăm Đại Thanh triều? Còn nữa. Từ ngày sinh ra đến nay, trẫm trên lạy trời cao, dưới lạy cha mẹ, tổ tiên, chưa từng bái lạy một ai. Nên nhớ dưới gối nam nhi có ngàn vàng. Vậy tại sao trẫm phải bái lạy Gia Khánh Bệ hạ?

- Hừ man di đúng là man di. Ngươi dám không coi Thiên triều ra gì như vậy sao? – Một vị Phó sứ đứng ra, buông lời trách cứ.

- Xin hỏi vị đây tên gọi là gì? Có nhiệm vụ gì trong lần đi sứ này? – Toản ôn tồn hỏi.

- Ta là Phó Văn Phương, Hữu Phó sứ lần này. Sao? Nhà ngươi biết tội của mình chưa?

- Tội? Người đâu, đem vị Phó Phó sứ này ra đánh hai mươi trượng cho trẫm.

Ngô Hùng Quang chưa kịp ngăn cản thì bốn thị vệ đã nhanh chóng bắt lấy Phó Văn Phương, đè xuống mà hành hình. Cùng lúc, Toản nói:

- Ngô đại nhân! Đừng cản! Đây là trẫm muốn thay đại nhân dạy cho thuộc cấp của mình một bài học đó. Ở đây, đại nhân còn chưa nói thì y làm sao có t.ư cách xen vào. Hơn nữa, các vị là khách, ai đời khách lấn chủ bao giờ. Các vị đến đây với t.ư cách là sứ giả thì càng phải biết giữ mồm giữ miệng nếu không muốn làm nhục quốc thể.

- Đa tạ Bệ hạ khoan hồng, chỉ trừng phạt nhẹ.

Ngô Hùng Quang chỉ đành nói vậy. Biết làm sao đây, đối phương đúng quá còn gì. Vả lại, nghe nói vị vua trước mặt là con của Hoàng đế Quang Trung, người mà Càn Long Gia còn phải nể mặt. Vậy thì không khéo đối phương nổi giận lại đem cả ba người ra chém thì công toi. “Nghe nói triều đại này của An Nam được dựng nên từ máu. Thế thì chém chết chúng ta cũng chỉ là chuyện vặt mà thôi. Phải nhẫn nhịn vậy”. Đó là những gì y đang nghĩ trong lòng.

Chờ cho Phó Văn Phương thụ hình xong, Ngô Hùng Quang nói:

- Bệ hạ răn dạy đã xong. Giờ đây, ta có điều này muốn hỏi.

- Mời đại nhân nói.

- Từ xưa đến nay, An Nam là nước chư hầu của Thiên triều. Mỗi vị vua khi lên ngôi đều phải đến triều kiến để được sắc phong. Ngay cả cha của Bệ hạ cũng thế. Vậy thì tại sao Bệ hạ không làm điều tương tự?

- Đại nhân nói phải lắm. Nhưng xin hỏi, An Nam là nước nào? Từ xưa đến nay, chúng ta chưa hề có Quốc hiệu như vậy. Thế thì chúng tôi nào phải chư hầu quý quốc. Và nếu các vị coi chúng ta là chư hầu thì sao mấy năm nội chiến vừa qua, quý quốc không hề có sự giúp đỡ nào? Quý quốc đã làm được gì cho chúng ta? Còn nói đến Tiên Hoàng. Chẳng qua tình thế trong nước lúc đó đang rối ren, Người làm như vậy là để phía bắc yên ổn đặng bình nội loạn. Do đó, không thể nói Tiên Hoàng quy phục Đại Thanh triều được.

- Nói thế thì việc biên giới bình yên để Bệ hạ an tâm mà dẹp nội loạn cũng chính là Thiên triều đã giúp đỡ cho chư hầu của mình đó thôi.

- Ha... Ha... Đại nhân! Ngài tự xưng một là Thiên triều, hai cũng là Thiên triều. Vậy thì Thiên triều cũng đến thế mà thôi. Việc chúng ta không hề cầu xin viện trợ của quý quốc để các ngài yên tâm bình ổn nội loạn Thiên địa hội cũng chính là món lễ vật tốt nhất rồi còn gì.

- Đúng vậy – Nguyễn Văn Tuyết nói xen vào. – Chư hầu đã thống nhất Giang sơn trong khi Thiên triều vẫn còn đó họa nội loạn. Xem ra Thiên triều cũng quá kém đi.

- Ngươi... Ngươi... Hỗn xược.

- Hỗn xược thì sao? Ngài bất quá cũng chỉ là một sứ giả mà thôi. Tội nhục mạ Hoàng đế của chúng ta còn chưa tính, nay còn dám hồ ngôn loạn ngữ à?

- Ngài Bộ trưởng xin bình tĩnh, đừng để mất hoà khí – Toản nói. – Ngô đại nhân. Phiền ngài trở về mà nói với Gia Khánh Bệ hạ lời này: Đại Thanh là một nước lớn thì cần phải biết hành xử như một nước lớn, không thể o ép các nước nhỏ hơn. Chúng ta cũng là một quốc gia độc lập. Vị thế do đó so với các ngài là ngang hàng. Quý quốc nếu muốn bang giao, trẫm hết sức ủng hộ. Bằng không, xin mời các vị về cho, trẫm không tiễn. Và giữa hai nước cũng không cần qua lại làm gì. Và nếu quý quốc có ý gì khác thì nên nhớ rằng chúng ta chỉ tự vệ.

Nghe những lời này, Ngô Hùng Quang chỉ còn đành cáo lui. Y quyết định ngay trong đêm nay sẽ trở về nước xin Hoàng đế phái binh chinh phạt để dạy cho Việt Nam một bài học. Vậy là Toản đã thành công trong việc kích động y xin phái binh. Như thế thì anh đã có đủ lý do để mà chinh phạt ngược lại người phương Bắc. Và vậy là một trận chiến mới sắp bắt đầu.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 60: Kế hoạch
Chương 60: Kế hoạch

Ngô Hùng Quang rời khỏi chính điện trong nhục nhã và bực dọc. Đây là lần đầu tiên họ bị xỉ nhục và không kiêng nể như thế. Trong mắt họ, cái đất nước nhỏ bé mãi vẫn là một Quận Giao Chỉ hay An Nam không thể tách rời của Trung Hoa. Rằng, dân tộc này vẫn là giòng giống Bách Việt man di bao năm qua và cần được khai sáng. Rằng, dân tộc này có được ngày nay toàn bộ là do Thiên triều ban cho.

Phó Văn Phương rời điện trên cáng tre. Y nằm sấp, trong lòng tức tối vô cùng:

- Ngô đại nhân! Cái lũ này đúng là man di mọi rợ. Chúng không hề biết tôn trọng sứ giả là gì. Cũng không hề đặt Thiên tử vào mắt. Chuyến này nhất định chúng ta phải dạy cho chúng biết thế nào là thiên uy.

- Phó đại nhân chịu khó vậy. Hiện giờ chúng ta đang trong đất của bọn chúng. Mọi việc đều phải nhẫn nhịn. Đợi tới khi quay về, chúng ta sẽ bẩm cáo Hoàng thượng. Nhất định chúng ta sẽ cho bọn chúng biết mình là ai. Nhất định phải cho chúng nếm mùi, gà chó không tha.

Ngô Hùng Quang đáp lời. Trong lòng y thật tức tối vô cùng. Viên phó sứ thứ hai Mã Anh Hào nói thêm:

- Đúng vậy, Phó đại nhân. Mối nhục này lẽ dĩ nhiên không thể bỏ qua. Nhưng chúng ta phải bình tĩnh. Tất thảy hãy theo sự sắp đặt của Ngô đại nhân.

- Được rồi, – Ngô Hùng Quang húng hắng – trước tiên chúng ta phải về nghỉ ngơi trước đã. Ngay trong chiều nay, chúng ta sẽ hồi kinh.

- Khoan đã đại nhân – Mã Anh Hào can ngăn. – Nếu chúng ta đi ngay vào lúc này sẽ không ổn. Biết đâu lũ man di này sẽ sai người làm khó chúng ta trên đường về đang khi Phó đại nhân còn đang bị thương. Tôi nghĩ, trước hãy nghỉ lại một hai ngày cho vết thương Phó đại nhân thuyên giảm đã.

- Sai rồi. Nếu như chờ mấy ngày, bọn chúng tất biết lộ trình của ta. Có lẽ giờ này bọn chúng không nghĩ là chúng ta sẽ đi ngay mà chờ thương thế Phó đại nhân khỏi hẳn. Do đó, hẳn là bọn chúng không hề phòng bị.

- Phải đó, vết thương này đối với tôi chỉ là chuyện nhỏ – Phó Văn Phương nhăn nhó – tôi chịu được. Chúng ta phải gấp rút hồi kinh bẩm báo Hoàng thượng chủ trì công đạo. Nhất định không thể tha cho bọn chúng, nhất là thằng lõi con Cảnh Thịnh đáng chết kia.

Mọi sự thế là đã định. Cả ba nhanh chóng trở về dịch quán gói ghém hành trang và lên đường về ngay chiều hôm đó. Bọn họ không muốn chần chừ thêm một phút giây nào nữa. Bọn họ dùng thuyền nhỏ rời khỏi bến Phú Định rồi lên thuyền lớn đang neo đậu ngoài khơi để về nước. Họ vốn dĩ vẫn cho rằng Việt Nam ngoài vài chiếc Định Quốc được xem như là quái vật trên biển kia thì chiến thuyền cũng chẳng có là mấy. Vả lại, Định Quốc to lớn chắc sẽ không có tốc độ cao bằng thuyền của họ vốn nhỏ hơn.

Dự tính là như vậy nhưng họ nào biết được sức mạnh đáng sợ của hải quân Việt Nam. Mọi động tĩnh lớn nhỏ của họ đều không thể nào qua khỏi tai mắt của Việt Nam. Chưa hết, có điều họ càng không ngờ là người của CPQ cũng đã trà trộn lên thuyền từ lúc nào chẳng biết. Nói thật, nếu như Quang Toản muốn, họ đã chết ngay tại đại điện chứ không phải chờ đến lúc này.

Lại nói đến Toản. Tất cả những việc vừa qua đều nằm trong sự sắp đặt của anh. Nhục mạ sứ giả ngay trên điện vốn chính là điều cấm kỵ, không nên làm đối với bất kỳ quân vương hay quốc gia nào. Thế mà anh vẫn làm thế. Lẽ nào ngay cả điều cơ bản nhất này anh còn không rõ hay sao? Không. Anh hiểu rõ chứ. Anh biết, trong mắt người Phương Bắc, dân tộc Việt mãi vẫn là man di, không biết hành xử. Họ đã nghĩ như vậy thì chìu theo họ vậy. Cứ hành xử như sáng nay sẽ càng làm cho họ coi thường. Chắc hẳn Thanh triều sẽ không cần phải suy tính mà đem quân chinh phạt ngay.

Vào buổi chiều, Toản cho người mời Mã Kim Đa vốn đang giữ chức vụ Tổng lãnh sự Anh Cát Lợi đến gặp mặt. Tham gia buổi gặp này còn có Thái thượng hoàng, Quang Thùy, Quang Bàn, Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Quang Huy cùng Allan Witchesster, người Đại Úy hải quân Hoàng gia Anh Cát Lợi đã cùng Quang Bàn về nước ngày nào.

Khi tất cả mọi người đều đã có mặt đầy đủ, Toản nói ngay vào đề:

- Các vị, thời điểm công phạt Phương Bắc đến rồi. Trẫm mời mọi người đến đây là để bàn xem việc tiếp theo, chúng ta chuẩn bị thế nào.

- Đến lúc đánh nhau với chúng rồi sao? Ha… ha… ha… Chú t.ư à. Anh chờ giây phút này lâu lắm rồi. Nói thật, mọi sự trên điện sáng nay thật là sảng khoái. Ha… ha… ha… – Quang Thùy sảng khoái cười lớn.

- Đúng vậy, ha… ha… nhìn cái mông nở hoa của tên Phó gì đó mà sướng con mắt – Bàn cũng hùa theo. – Chú t.ư à, theo anh, lẽ ra phải tăng thêm chứ hai mươi hèo thì còn nhẹ đó. Phải đánh cho hắn phải lết luôn chứ thế thì còn nhẹ quá.

- Ai da, ba anh em mấy người quả là… – Nguyễn Văn Tuyết tủm tỉm cười. Nói thật, ông cũng thấy hả lòng hả dạ. – Nhưng Bệ hạ, việc này chúng ta có làm quá hay không?

- Chú Tuyết à! – Toản nói – Đúng như anh ba nói đó. Thế vẫn là còn nhẹ. Trong mắt bọn họ, chúng ta chỉ là lũ man di, là mọi rợ. Chúng muốn nghĩ thế thì chúng ta tội gì không thỏa ý nguyện bọn chúng? Làm như thế càng giúp mọi sự trôi chảy hơn ấy chứ.

- Ta cũng đồng ý với cách của mấy con – Nguyễn Ánh góp lời. – Quả thật, thấy cái tên Phó gì đó ăn đòn mà ta cười thầm trong bụng. Nói thật, ta vốn thích chuyện này lắm. Nhưng việc này phải để đám trẻ các con làm thì hay hơn. Ha… ha… ha…

- Thái thượng hoàng. Ngay cả ngài còn như vậy sao? Sao không tự tay làm đi? Rõ là đùn đẩy trách nhiệm mà. – Tuyết vừa cười, vừa trêu Ánh.

- Nói thật nhé. Nếu mà Trẫm là vua thì ông đã phải chịu phạt, ít nhất là ăn mấy mươi hèo rồi. Bất quá, trẫm thích cách mà quần thần thân thiện thế này hơn là lúc nào cũng phép tắc này nọ.

Quả thế. Nguyễn Ánh vốn xuất thân từ Vương tộc nhà Nguyễn. t.ư tưởng Nho giáo vốn đã ăn sâu vào tâm. Nhưng ông cũng là người khá cởi mở. Mấy năm chạy nạn ở châu Âu cũng làm tâm trí ông phóng khoáng hơn. Nhưng bản thân là vua lúc đó, ông không thể nào chấp nhận được việc này. Nhưng giờ đây, mọi sự đã khác. Ông đã cởi bỏ được gánh nặng trên vai. Lại thấy Giang sơn phát triển thuận lợi nên không còn câu nệ mọi thứ nữa. Lúc này, Toản nói:

- Thôi, chúng ta hãy quay về việc chính thôi. Các khanh tính thử xem, khoảng bao lâu nữa là họ sẽ động binh?

- Theo thần thấy, bọn họ mất khoảng mười ngày mới có thể về đến Bắc Kinh. Lại mất ít nhất một tháng nữa để chuẩn bị chiến tranh. Vậy ra còn khoảng một tháng rưỡi nữa.

Người mới nói là Nguyễn Quang Huy. Anh đã tính toán đúng. Có điều đó là theo bình thường. Tình thế ngày nay lại có điều khác biệt. Bởi vậy, tính toán của Huy đâm ra sai lệch. Lúc này, Nguyễn Văn Tuyết mới nói:

- Quang Huy, anh tính sai rồi. Tối đa là nửa tháng thôi. Anh có nghĩ đến vì sao Thanh triều không phái một quan văn đi sứ mà lại là một vị tướng lâu năm không? Đó là vì bọn họ muốn xem thử tình hình nước ta thế nào. Bởi vậy, Bệ hạ mới diễn vở tuồng man di kia để đánh lừa và khích y. Thứ nữa, hiện Thanh triều đang bị các nước chư hầu chống đối dù chỉ ngấm ngầm thôi. Do đó, nhất định họ đã quyết chí chinh phạt nước ta để lập uy. Thế nên, tôi nghĩ họ đã chuẩn bị xong mọi thứ từ trước khi đến đây rồi.

- Tôi cũng đồng tình với ý kiến của chú Tuyết – người nói là Quang Thuỳ. – Tôi hiện đang theo rất sát tình hình của Thiên địa hội, à không, phải nói là Hồng Hoa hội mới đúng. Người bên đó cho hay gần đây ít thấy Gia Khánh đàn áp bọn họ nữa. Có thể là họ có ý khác.

- Vậy thì chắc là đúng rồi – Huy nói.

Nguyễn Ánh trầm ngâm nãy giờ mới húng hắng một cái rồi nói:

- Trẫm lại nghĩ chúng ta chỉ có chưa tới mười ngày đâu. Ta tin là đám sứ giả đã thả bồ câu báo cáo tình hình cho Gia Khánh. Tin tức sẽ đến Bắc Kinh trước khi họ trở về đến nơi.

- Con cũng nghĩ như nghĩa phụ – Toản nói. – Người của CPQ được cắm trên thuyền của đám sứ giả đã báo tin về. Tin cho biết bọn họ đã thả bồ câu đi. Như vậy, chắc là bọn họ sẽ động binh trong vòng mười ngày tới. Vậy mọi người nghĩ họ sẽ phái đi bao nhiêu binh mã và kế hoạch ứng phó của ta thế nào?

- Thần tin chắc là không dưới ba trăm nghìn, tức là ba mươi vạn – Tuyết lại nói. – Lần trước bọn họ đem sang đây ba trăm nghìn người đã bị đánh cho tan tác. Lần này nhất định họ sẽ phái đi nhiều hơn.

- Thật ra – Nguyễn Ánh nói – bao nhiêu thì phải đợi thám báo của CPQ. Cái cần làm bây giờ là đối sách. Chúng ta đã chủ động tạo ra cuộc chiến này thì không thể thua được.

Vào lúc này, mọi người cùng nhau tiến hành bàn bạc kế sách ứng phó cho cuộc chiến sắp tới. Nếu xét về quân số, Việt Nam mãi mãi không bao giờ bằng Trung Hoa dù là ở triều đại nào. Chiến thuật tổng quát của họ tựu chung vẫn là “biển người”. Trong những trường hợp có quân số áp đảo, mưu kế trong mỗi trận đánh với họ có vẻ như là khá dư thừa. Lịch sử đối đầu giữa Đại Việt mấy thế kỷ trước với Trung Hoa đã minh chứng cho điều đó. Binh mã Đại Việt chưa bao giờ vượt qua con số hai mươi vạn. Trong khi đó, quân số của người phương Bắc chưa bao giờ ít hơn ba mươi vạn. Vậy mà biết bao đời nay, không biết bao nhiêu phen bọn họ phải ôm hận. Cũng trải bao nhiêu thế hệ, kẻ dành chiến thắng sau cùng chưa bao giờ là người Phương Bắc. Đại Việt từ khi đó và Việt Nam ngày nay nổi lên là một dân tộc chuyên dùng ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh.

Vậy đâu là yếu lĩnh cho những chiến thắng vĩ đại từ bao đời của cả dân tộc. Ấy chính là lối đánh nổi tiếng đến tận thế kỷ hai mươi mốt, “du kích”. Thế nhưng, cũng cần hiểu thêm, lối đánh này phù hợp nhất cho những trận chiến phòng thủ và người cầm quân phải cực kỳ am hiểu địa hình tác chiến. Ngày nay, Toản quyết định tiến công lên đất Bắc, vậy thì liệu lối đánh này có phù hợp nữa hay không? Điều này sẽ có ý nghĩa quyết định đến kết quả chung cuộc lần này. Tiêu chí lần này lại là đánh nhanh, thắng nhanh. Bởi thế, dùng cách đánh thế nào thì cần phải tính toán lại thật chi tiết.

Một điều đáng để cân nhắc là Việt Nam hiện có ưu thế hơn khá xa so với Đại Thanh về hỏa lực. Nói đến đây, cần phải nhắc đến một thành công quan trọng trong việc cải tiến súng ống. Là người đến từ tương lai, lẽ dĩ nhiên Toản biết rõ uy lực của những loại súng trường hiện đại như AK, serie M như M16, M17. Tuy nhiên, anh không cổ suý cho việc sản xuất chúng vì nhiều lý do. Thứ nhất là công nghệ hiện tại chưa cho phép. Thứ hai, anh không muốn chúng xuất hiện quá sớm mà làm bùng phát chiến tranh. Lại nữa, anh e ngại chính bản thân những người Việt dấy lên giấc mộng bá quyền. Dù vậy, nếu như phát triển loại súng trường bắn phát một vốn xuất hiện vào cuối thế kỷ mười tám, đầu thế kỷ hai mươi là điều chấp nhận được. Vốn có học vị Master Vật Lý, lại được tham khảo tài liệu về các loại vũ khí cơ bản lúc chưa xuyên việt, Toản không khó lắm trong việc thiết kế ra chúng. Băn khoăn rất nhiều, Toản chọn súng Mosin. Đây là loại súng trường bắn phát một nổi tiếng của người Nga, xuất hiện vào năm 1891. Cải tiến lớn nhất của nó là dùng bệ khoá nòng thủ công với kim hỏa thay cho “mỏ gà” hay “con thỏ” cùng với hộp đạn đơn năm viên. Anh đặt tên cho nó là TSG02. So với khẩu Mosin có đường đạn xa nhất là ba nghìn mét thì nó chỉ đạt được hai nghìn mét. Tuy nhiên, so với TSG thì nó ưu việt hơn nhiều khi một phút bắn được mười viên đạn chứ không phải là sáu viên. Tầm bắn của nó là một nghìn mét và hiệu quả ở tám trăm mét. Việc chế tạo TSG02 bắt đầu từ năm 1799, mãi đến ba năm sau mới thành công và sản xuất đồng loạt. Cho đến nay, toàn bộ binh sĩ đã được trang bị loại súng này.

Bởi thế, cách đánh hiện đại đã có thể áp dụng. Tức là không cần dàn quân dày đặc và tiến lên từng bước. Các binh sĩ có thể chia thành nhiều đơn vị, chiếm lĩnh nhiều hướng khác nhau mà tiến lên. Chưa hết, quân đội lại còn phối hợp với đại bác và tên lửa để yểm trợ.

Đó là cách đánh. Khi bắt đầu bàn về chiến thuật, trước hết, Toản quay sang hỏi Mã Kim Đa:

- Mã Kim Đa, ở Đà Nẵng, quân số của các ngài có bao nhiêu rồi?

- David Bệ hạ! Chúng tôi đã tập trung bốn mươi chiến thuyền Frigate lớp hai cùng với hai mươi thuyền đổ bộ. Tổng số binh sĩ là mười nghìn người chưa kể số thủy thủ.

- Tốt lắm! Ngài biết chúng tôi đã phát triển loại súng mới rồi chứ? Số lượng dư ra chưa nhiều nhưng vừa khéo tồn trong kho mười nghìn khẩu. Nếu muốn, chúng tôi sẽ tặng các ngài năm nghìn khẩu, lại bán rẻ năm nghìn khẩu, giao hàng trước, mười hai tháng sau thanh toán. Ngài thấy thế nào?

- Ngài cũng biết, việc này tuỳ thuộc vào quyết định của Hội đồng và Đức vua. Tôi thật không dám quyết. Tuy nhiên, tôi có cách này. Chúng tôi vô cùng hân hoan đón nhận năm nghìn khẩu Bệ hạ tặng. Phần năm nghìn khẩu kia xem như chúng tôi mượn. Cùng lúc này, tôi cũng cho người về nước báo lại. Nếu được chấp thuận thì người đó sẽ trở về đây với toàn bộ số tiền phải thanh toán. Ngược lại, chúng tôi sẽ trả lại cùng với một khoản phí nho nhỏ xem như là tiền thuê súng.

- Được lắm. Cứ thế mà làm thôi.

Lúc này, Nguyễn Quang Huy nói:

- Bệ hạ! Nói gì thì nói, ta cho dù có chuẩn bị đầy đủ thế nào chăng nữa cũng không thể tuỳ ý tấn công khi họ chưa động binh. Vả lại, dù họ có động binh nhưng chưa vượt qua được biên giới thì cũng không thể nào tạo ra cái cớ cho Anh Cát Lợi tiến đánh được.

- Đúng vậy – Nguyễn Ánh nói. – Trẫm thấy, trước tiên phải cho chúng thắng vài trận đã. Khi đó, Đại uý Witchesster đây phát động tấn công trên biển với lý do bênh vực đồng minh rồi mới đến lượt ta.

- Nói vậy nhưng chúng ta cũng không thể chờ mãi được – Quang Thuỳ nói. – Ta thấy bấy nhiêu vẫn có thể là chưa đủ để bọn chúng nhanh chóng hành động. Mọi người có biết bọn chúng hiện sơ nhất điều gì không? Chính là đám người Hồng hoa hội đó. Ta nghĩ, nếu như ta thả ra tin đồn rằng chính chúng ta cung cấp tài chính cho hội phản Thanh phục Minh này thì bọn chúng sẽ có động thái thế nào? Đó chính là lo sợ và tức tối. Cộng thêm việc sỉ nhục đám sứ giả vừa rồi, chúng nhất định sẽ cất binh thảo phạt.

Và còn nhiều ý kiến khác nữa. Song, cuối cùng mọi người nhất trí sẽ theo như ý Thuỳ, tạo thêm một cái cớ nữa ép nhà Đại Thanh phải động binh. Phần Việt Nam, quân thần và nước bạn đều đồng ý sẽ tỏ ra yếu thế hơn, để thua vài trận tạo cái cớ cho người Anh Cát Lợi xua quân tiến đánh ở mặt biển. Tiếp theo đó, hạm đội một sẽ từ phía sau yểm trợ cho Hải quân Hoàng gia Anh Cát Lợi xâm nhập từ ngoài biển, theo sông tiền đường đi chuyển về Trường Giang rồi áp sát Bắc Kinh. Cùng lúc, quân đoàn một và hai của Việt Nam tìm cách vòng qua sau lưng địch, tiêu diệt đoàn quân thảo phạt rồi tiến thẳng kinh thành Đại Thanh.

Vậy là mọi sự đã định. Sẽ không lâu nữa, một cuộc chiến sẽ nổ ra. Và chiến trường lại nằm trên đất của kẻ xâm lược. Chính nó sẽ mở ra một đế chế hùng mạnh mới ở châu Á.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 61: Hoàng đế đột quỵ
Chương 61: Hoàng đế đột quỵ

Ngay sau cuộc họp bí mật, Quân đoàn một và Quân đoàn bốn mới được thành lập chưa được bao lâu đã được điều động tiến về biên giới phía Bắc. Việc chuyển quân được thực hiện hoàn toàn trong bí mật. Giữa những lo toan bộn bề cho cuộc sống thường nhật và dự định trong tương lai, không có người nào biết được một đại sự đang âm thầm diễn ra.

Cuộc sống cứ thế mà yên ả trôi qua trừ một tin tức chấn động. Hai ngày sau khi đoàn sứ giả Đại Thanh rời khỏi Phú Xuân, vị vua trẻ, người được toàn dân yêu thương và ủng hộ bất ngờ đột quỵ giữa lúc đang họp với mấy người trong bộ chính trị. Tin tức này còn xác thực hơn nữa khi đây là một cuộc gặp gỡ của nhà vua cùng bộ chính trị với những người đại diện của người dân. Cuộc họp này vốn dĩ được tổ chức đều đặn mỗi ba tháng một lần. Đã từ cách nay khá lâu, Toản đã cho tổ chức những cuộc gặp gỡ thế này để hiểu rõ hơn tiếng nói của con dân mình. Các sự kiện này thường diễn ra vào các tháng giêng, năm, tám và mười một. Sở dĩ anh chọn các tháng này vì thông thường, Tết Nguyên Đán hay rơi vào tháng hai và ba dương lịch.

Các bác sĩ Tây y và đại phu Đông y giỏi nhất cả nước đều rục rịch tiến về Kinh thành Phú Xuân. Một buổi hội chẩn lớn sắp được tổ chức để tìm hiểu bệnh tình và chữa trị cho vị vua trẻ. Khắp các đền chùa, nhà thờ đều tổ chức những buổi cầu nguyện. Bá tính thầm xin ơn trên cho Quảng Toản có sức khỏe an khang. Với họ, chỉ có vị vua anh minh, tài giỏi và nhân hậu như Toản mới có thể đem lại cuộc sống ấm no hiện tại. Ngay cả các công sở cũng dành ra mười lăm phút đồng hồ vào mỗi sáng sớm để cầu nguyện tại nơi làm việc.

Đã bốn ngày trôi qua mà vẫn chưa có tin tức tốt lành nào được truyền ra. Cuộc hội chẩn lớn cũng đã qua nhưng không một ai có thể đoán định được căn bệnh này là gì. Nhà vua hôn mê đến nay đã bước sang ngày thứ sáu. Ai nấy đều cảm thấy lo lắng trong lòng không yên. Cả nước chìm trong một không khí ảm đạm.

Như thế, lẽ nào căn bệnh của Toản quả thật nghiêm trọng đến thế sao? Tại sao cơn đột quỵ lại không chọn lúc nào mà lại đến ngay lúc này? Đây là thời điểm then chốt, quyết định sự tồn tại của cả một vương triều hưng thịnh khi mà người Phương Bắc đang lăm le, dòm ngó. Lẽ nào Toản cũng giống như Quang Trung Hoàng đế năm xưa nằm xuống ngay trong thời điểm mấu chốt nhất?

Hoặc dã đây chỉ là một mưu kế? Nếu thế thì nó rõ ràng đã rất thành công. Nhưng mưu kế nào mà lại phải lấy sinh mạng của nhà vua để thực hiện. Làm như thế lẽ nào Toản không sợ mình sẽ có điềm gỡ sao? Và Toản làm thế để làm gì?

……………

Tử Cấm Thành, Bắc Kinh, Đại Thanh triều.

“Thánh thượng giá lâm!”

“Ngô Hoàng vạn tuế… vạn tuế… vạn vạn tuế!”

“Các vị ái khanh! Hãy bình thân!”

Đây là buổi thượng triều của Gia Khánh Hoàng đế sau khi Ngô Hùng Quang cùng đoàn sứ giả trở về đến Bắc Kinh. Đó cũng chính là ngày tám tháng mười một theo Dương lịch. Trước đó một ngày, Gia Khánh đã vô cùng tức tối khi triệu kiến Ngô Hùng Quang ở điện Càn Thanh. Cái tách uống trà yêu thích cũng bị ông quẳng mạnh xuống đất, vỡ nát. Phải nói, từ sau khi diệt trừ đại nịnh thần Hòa Thân, đây là lần đầu tiên Gia Khánh giận dữ đến vậy. Ông ta vốn dĩ được xem như vị Hoàng đế hiền lành và trầm tính. Thế mà việc sỉ nhục sứ giả Thiên triều ngay tại chính điện của Cảnh Thịnh ở đất Phương Nam lại làm ông ta giận sôi gan tím mật. Cũng phải thôi, đây là một sự làm nhục quốc thể, làm nhục trắng trợn và nghiêm trọng đối với Đại Thanh. Ông dự định sáng nay sẽ ban lệnh chinh phạt nước Nam.

Sau khi bá quan văn võ đứng dậy, Gia Khánh nói:

- Chư vị ái khanh. Ngày hôm qua trẫm đã rất tức giận, các khanh có biết lý do vì sao không?

Người ta nói, không có gì đáng sợ hơn cơn giận dữ của Hoàng đế. Nghe Gia Khánh nói thế, toàn thể triều thần đều lắc đầu, đứng im. Có ai dám lên tiếng đâu, họ sợ nói sai sẽ phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Thiên tử. Gia Khánh nói tiếp:

- Hừ… Không ai trong các khanh biết à? Thật vô dụng. Chu Khuê! Khanh là Thừa tướng. Thân là người đứng đầu bá quan, lại là ân sư của trẫm, khanh có biết việc gì đang xảy ra hay không?

Chu Khuê vốn là thầy dạy của Gia Khánh. Từ sau khi Hòa Thân chịu tội, ông được phong làm Thừa tướng, chấp chưởng mọi sự vụ lớn nhỏ trong triều. Nghe nhà vua chỉ đích danh, khác với các vị quan khác đang tim đập chân run, ông đường hoàng bước ra, nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng! Tâm t.ư của Hoàng thượng, thật thần không dám hiểu rõ nhưng cũng hiểu được đôi chút. Không biết cơn giậ của Hoàng thượng đến từ đất An Nam?

- Khanh nói đúng. Hôm qua trẫm mới triệu kiến Ngô Hùng Quang, Tổng đốc Lưỡng Quảng mới đi sứ An Nam về. Nay trẫm sẽ cho triệu y vào để các khanh đều tỏ.

Đoạn, ông quay sang tên thái giám đang đứng hầu ở bên, nói: “Mau truyền Ngô Hùng Quang, Phó Văn Phương, Mã Văn Hào lên điện”.

Ba người được gọi tên lục tục bước lên chính điện trong những ánh mắt tò mò của bá quan văn võ. Trong ba người, Phó Văn Phương vốn bị đánh đòn, lại phải gấp rút trở về nước nên vẫn còn đau, bước chân tập tễnh. Lên đến nơi, cả ba cùng quỳ xuống khấu đầu Hoàng đế. Gia Khánh nói:

- Ba vị khanh gia hãy bình thân. Phó khanh gia, khanh vẫn còn đau, trẫm ban cho ngồi.

- Tạ chủ long ân – Phó Văn Phương lạy tạ.

Sau đó, Gia Khánh lại truyền cho Ngô Quang Hùng bẩm báo lại mọi chuyện. Nghe lời, Ngô Quang Hùng kể lại rành mạch những gì mà đoàn sứ bộ đã trải qua ở Việt Nam. Y lại còn không quên thêm mắm dặm muối, khoa chân múa tay kể khổ. Hai viên phó sứ cũng hùa theo tố cáo. Bọn họ dùng những từ ngữ nặng nề nhất, xấu xa nhất dành cho Việt Nam như “lũ man di”, như “bọn vô học”, “lũ thổ phỉ”, hay như nói Toản là tên “cẩu tặc”, “tiểu nhân đắc chí”…

Chưa hết, Mã Văn Hào còn tố bọn họ trong lúc trên đường trở về lại còn bị truy đuổi và bức hại trên biển mặc dù việc này chưa hề xảy ra. Quả thật, nếu ngày đó có một giải thưởng dành cho những kịch sĩ thiên tài thì ba người bọn họ xứng đáng giành được ba thứ hạng đầu.

Lời kể của ba “nhân chứng” quá sống động và “chân thật” đến nỗi ai nấy trong triều đều tỏ ra căm phẫn. Mấy vị quan văn thì chỉ lắc đầu, mắt nhắm chặt, luôn miệng nói “đồ không biết phép tắc, không hiểu lễ giáo”. Trong khi đó, mấy vị võ tướng thì nắm chặt tay thành hình nắm đấm, mắt long sòng sọc, luôn miệng nói “cái lũ vô học đáng chết”.

Sau khi ba người nọ diễn xong vở tuồng, Gia Khánh nói:

- Chư vị ái khanh! Các khanh nói thử trẫm phải làm thế nào đây?

“Đánh… đánh… đánh bẹp chúng cho chúng biết mặt”, mấy viên võ tướng mày râu dựng ngược cùng la to lên. Ôn hòa hơn một chút, Binh bộ Thượng thư Khánh Quế nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng! Chúng nay đã xúc phạm Thiên triều. Ấy là tội lớn không thể tha. Khẩn xin Hoàng thượng cho cất binh chinh phạt. Nhưng trước hết, chúng ta cần phải suy xét mọi sự trước sau cho tỏ tường đã.

- Thần cũng thấy vậy, tâu Hoàng thượng. – Đại học sĩ Lưu Dong bước lên.

- Đúng vậy. Việc thảo phạt lũ man di này là phải làm. Nhưng trẫm cũng đồng ý với hai vị khanh gia. Chúng ta cần phải bàn bạc thêm khi nào sẽ tiến hành và tiến hành bằng cách nào, ai sẽ cầm quân.

Bá quan nhìn nhau, họ thảo luận một hồi. Một lúc sau, có người bước ra, nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng. Bọn chúng đúng là lũ vô học. Thần ủng hộ ý thảo phạt.

- Khởi bẩm! Thần vừa thu được một tin tức – một người khác nói. – Những năm gần đây, sở dĩ đám phản tặc Hồng Hoa hội dấy binh làm phản là nhờ bọn tặc tử An Nam cung cấp tiền tài, quân nhu và xúi dục. Dẹp yên An Nam, Hồng Hoa hội không còn ai chống lưng sẽ tự nhiên tan rã.

- Có chuyện này sao? Sao trước nay trẫm không hề nghe ai nói?

Lại một lần nữa, Gia Khánh lại nổi trận lôi đình. Phải nói Hồng Hoa hội là cái gai trong mắt ông ta đã mấy mươi năm nay. Trong dân gian lại có tin đồn thủ lĩnh Hồng Hoa hội Trần Cận Nam năm xưa có quan hệ không nhỏ với hai vị tiên đế là Khang Hy và Càn Long nên Gia Khánh đã nuôi lòng bình định nỗi lo nội loạn này từ lâu. Thế mà càng dẹp, quân phản loạn lại càng mạnh mẽ. Nếu việc này lo liệu không xong thì Thanh triều tất sinh nguy biến.

- Hoàng thương – Đại học sĩ Đổng Cáo lại lên tiếng. – Việc chống lưng của An Nam nếu có thì phải nói là một chuyện hết sức bí mật. Việc truy ra điều này phải nói là rất khó. Thế nên mong Hoàng thượng bớt cơn thịnh nộ. Bây giờ, gốc rễ nội ưu đã tra ra, việc nhổ bỏ nó không còn là vấn đề nữa. Chỉ cần cắt đứt nguồn viện trợ là phản quân sẽ tan rã thôi. Cái chính là bây giờ chúng ta nên cất quân thảo phạt. Đây là kế một ná bắn hai chim.

- Bẩm Hoàng thượng! Thần có hai nghi vấn. – Định Thân vương Miên Ân nói.

- Thân vương, khanh nói.

- Thứ nhất, An Nam trước giờ rất yên phận, tại sao bây giờ lại công khai khiêu khích uy danh Thiên triều? Thứ hai, việc chu cấp cho phản quân là một việc hết sức bí mật. Tại sao việc này không sớm, không muộn lại bại lộ ngay lúc này? Vậy phải chăng chúng có âm mưu khác?

Nghe nói vậy, Gia Khánh ra chiều suy nghĩ. Đúng vậy, cả hai vấn đề mà Định Thân vương nói ra đều đi đúng vào trọng tâm. Ông ta giờ đâm ra khá lúng túng, chưa biết phải xử sao cho đúng. Lúc này, Khánh Quế lại phân tích:

- Bẩm Hoàng thượng! Thần thấy lo lắng của Định Thân vương đúng là đang phải suy nghĩ. Theo thần, thứ nhất, bây giờ đám man di An Nam tỏ ra hống hách bởi vì chúng nghĩ chúng đã đủ sức đương cự với ta. Mấy năm qua, thám tử Thiên triều có báo cáo về sự sung túc của bọn chúng. Thế thì chúng dám ngang nhiên khiêu khích cũng là điều dễ hiểu. Còn vấn đề thứ hai, thần nghĩ, đây là chúng cố tình lộ ra. Chúng muốn nói cho ta biết, “trước hết chúng ta phải tự lo cho thân mình đi”. Như vậy, chúng ta sẽ không có hơi sức đâu mà trừng phạt chúng.

- Theo thần thấy phân tích của Khánh đại nhân là có cơ sở - Lưu Dong nói. – Bọn man di nghĩ rằng chúng đã đủ lông đủ cánh rồi, muốn bay lên trời mà thôi. Thế nhưng chúng tính vẫn sai một nước, đó là nếu ta chấp nhận tạm thời bỏ qua phản quân mà đối phó chúng thì ta lại có được hai cái lợi ích như đã nói. Thần đề nghị Hoàng thượng chuẩn y việc thảo phạt.

- Thần còn nghe nói – Đổng Cáo lại nói thêm – Cảnh Thịnh vừa qua bị đột quỵ. Nếu thế thì bộ máy của bọn chúng tạm thời sẽ tê liệt.

- Có chuyện này sao? – Mắt Gia Khánh bỗng sáng lên.

- Bẩm Hoàng thượng! – Khánh Quế nói tiếp – Việc này là chính xác. Nghe nói y đột quỵ trước mặt bá quan và dân chúng. Thần cũng gấp rút cho người điều tra và xác nhận. Triều chính của bọn chúng hiện đang bị bỏ bê, tất cả đang dồn sức chữa chạy cho thằng lõi con Cảnh Thịnh. Thần nhận định đây là cơ hội không có khi nào tốt hơn. Thần dự định hôm nay sẽ bẩm báo. May sao vừa lúc chúng ta đang bàn luận việc này. Và cách nay hơn một tháng, theo lời Hoàng thượng, thần đã cho binh sĩ tập kết ở phía nam, lương thảo đầy đủ, bất cứ lúc nào cũng có thể động binh.

- Tốt… Tốt… Tốt…

Gia Khánh nói liền ba tiếng tốt. Đây là lần đầu tiên ông ta cười sảng khoái và vui vẻ. Đoạn, ông nói tiếp:

- Ngày trước ta sai khanh cho tập kết một trăm vạn quân. Nay việc đã thế này, ta nghĩ, chỉ cần với ba mươi vạn quân là dư sức bình định An Nam, đưa đất đó quy về cố thổ.

- Hoàng thượng! Thần thấy không ổn. – Lưu Dong nói.

- Khanh nói không ổn chỗ nào?

- Bẩm! Ngày trước, Tiên đế phái đi ba mươi vạn quân, những tưởng có thể bình định chúng. Nào ngờ chúng ta đã phải lui binh. Nay tình thế thay đổi. Tuy nói là ưu thế nghiêng hẳn về chúng ta. Nhưng cũng không thể tỏ ra khinh địch được.

- Hoàng thượng – Khánh Quế nói tiếp. – Thần cũng đồng ý với Lưu Đại học sĩ. Chúng ta nên phái đi năm mươi vạn quân để đề phòng vạn nhất.

- Được. Năm mươi vạn thì năm mươi vạn. Trận này trẫm muốn thân chinh. Chúng đã khiến trẫm thực sự nổi giận rồi.

- Hoàng thượng thân thể nghìn vàng, vạn lần không thể. – Bá quan nhao nhao khuyên can,

- Ý trẫm đễ quyết, tuyệt không thay đổi.

Lúc này, Nghi Thân vương Vĩnh Tuyền lên tiếng:

- Hoàng huynh! Huynh có thể nghe đệ nói một lời không?

- Đệ mau nói. Nhưng cũng đừng mong trẫm thay đổi chủ ý.

- Tạ ơn Hoàng huynh. Đệ cũng như huynh, rất căm giận bọn chúng. Nhưng như bá quan đã nói, Hoàng huynh thân thể nghìn vàng, quyết không nên xông pha vào nguy hiểm. Đệ cũng chảy trong mình dòng máu Ái Tân Giác La, đệ nguyện thay huynh trưởng cầm quân. Việc này, Hoàng huynh hay đệ cầm quân cũng đã có thể hiển hiện Thiên uy. Còn nữa, khi chiếm được kinh thành của bọn chúng, đệ sẽ mời huynh hạ cố đến. Thằng lõi Cảnh Thịnh đó tùy huynh xử trí trước mặt dân của chúng để tỏ rõ cơn giận của Thiên tử là thế nào.

Ngẫm nghĩ một hồi lâu, Gia Khánh cũng thay đổi quyết định. Ông ta đồng ý phái Nghi Thân vương Vĩnh Tuyền lĩnh ấn soái, mang theo năm mươi vạn quân đi thảo phạt Việt Nam. Một điều quan trọng nữa, lần này ông ta không cho thủy quân đi. Bởi lẽ, tin tức truyền về cho thấy hải quân Việt Nam thật sự rất mạnh. Nếu đối chiến trên biển, dù chiến thắng nhưng Đại Thanh cũng sẽ chịu tổn thất không nhỏ.

Cuối cùng, Gia Khánh lệnh cho Nghi Thân vương hai ngày sau làm lễ bái tướng, tế cờ xuất chinh. Vậy là cuộc chiến giữa hai nước từ đây đã chính thức bùng nổ.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 62: Chiến tranh
Chương 62: Chiến tranh
Ngày 16 tháng 11 năm 1805, nhằm ngày 27 tháng 10 năm Ất Sửu, Tử Cấm Thành, Bắc Kinh,

Hôm nay, trong khuôn viên Tử Cấm Thành, người ta cho dựng lên một tế đài hình bát giác cao tám mét. Ở mỗi cạnh của tế đài cắm một lá cờ lớn tương ứng với quân kỳ của tám Kỳ binh. Trên đài cắm hai lá cờ cỡ lớn, một là Đại Thanh Hoàng Kỳ, còn lại là một lá soái kỳ. Ngoài ra, trên đó còn có bàn hương án, giá để mười tám món vũ khí, tục gọi thập bát ban binh khí, đại diện cho sức mạnh của quân đội, chia ra hai bên hương án.

Phía dưới đài, binh sĩ đứng xếp hàng ngay ngắn theo từng nhóm Kỳ binh. Đầu hàng là các võ tướng thống lãnh cùng tham tướng, phó tướng. Hôm nay, họ tập trung nơi đây để làm lễ tế cờ, xuất binh thảo phạt Việt Nam. Mọi công việc chuẩn bị đều được tiến hành từ sớm. Tất cả mọi người đều hồi hợp chờ đợi Gia Khánh Hoàng đế cùng bá quan văn võ xuất hiện sau buổi chầu sớm.

Đầu giờ Ngọ, hai hàng quan văn võ lục tục kéo đến, xếp hàng dưới chân đài. Lúc này, viên thái giám truyền chỉ nói lớn: “Hoàng thượng thượng đàn”.

Phía dưới, bá quan cùng binh sĩ hô vang: “Ngô Hoàng vạn tuế… vạn tuế… vạn vạn tuế…”

Gia Khánh lúc này mới xuất hiện, bước từng bước chậm rãi lên từng bậc thang trong từng tiếng hô “vạn tuế”. Lên đến nơi, ông ta phất tay nói “Trẫm miễn lễ, chư vị khanh gia bình thân” rồi ngồi xuống chiếc Long ỷ được chuẩn bị từ trước. Đoạn, ông ta ra hiệu cho viên thái giám bên cạnh, sai y đọc chiếu thư. Viên thái giám lạy tạ rồi mở cuộn giấy, ưỡn mình đọc lớn:

“Thượng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết,

Trẫm nhờ trời cao chiếu cố đã trải hơn mười năm tại ngôi vị Thiên tử. Trong mấy năm này, những việc Trẫm làm dù ít nhiều chưa thể so sánh với Thập toàn võ công của Tiên đế. Thế nhưng, Trẫm tự tin mà nói, mấy năm qua, dưới sự trị vì, nơi nơi quốc thái dân an. Điều an ủi và tự hào nhất, đó là chính tay Trẫm đã phế bỏ Đại gian thần Hòa Thân cùng Phúc Khang An, đem lại sự ổn định cho triều chính.

Việc lo lắng hiện nay của Trẫm chính là bọn phản tặc Hồng Hoa hội. Đây chính là nội ưu. Gần đây, Trẫm có được tin tức xác đáng rằng chính bọn man di An Nam đã chu cấp cho chúng tiền tài, binh khí để dấy quân làm phản. Bởi thế nên bọn man di phương Nam kia chính là ngoại loạn vậy.

Tình thế Giang sơn hôm nay đang hồi nguy cấp. Trong có nội ưu, ngoài có ngoại loạn. Trẫm cũng đã có kế sách bình loạn. Đó là phải dẹp bỏ ngoại loạn trước. Nhờ thế mà bọn tặc phỉ Hồng Hoa hội sẽ không còn kẻ chống lưng, tất sinh bất ổn và sụp đổ.

Lại nữa, xứ man di An Nam kia mỗi ngày lại thêm hống hách và khinh lờn Thiên uy. Từ ngày An Nam vương Nguyễn Quang Bình của chúng còn sống, nhân Tiên đế lúc này tuổi đã cao, chúng đã cấu kết với Đại gian thần Hòa Thân và Phúc Khang An để mưu lợi. Điều đó cho thấy chúng đã có âm mưu từ trước.

Vừa rồi, Trẫm đã sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang đi sứ sang đó. Định rằng chuyến đi này nhằm để hỏi tội tại vì sao năm năm rồi chúng còn chưa phái người đi diện kiến và cống nạp cho Thiên triều. Thế mà cả Chính sứ Ngô Hùng Quang và Phó sứ Phó Văn Phương đều bị chúng dùng nhục hình trên chính điện. Đây là điều xúc phạm Thiên triều quá thể.

Mọi điều trước mắt đều cho thấy đám man di An Nam quả là tội lớn khó tha. Nay Trẫm quyết định cất binh thảo phạt. Trước là để đạp chúng dưới gót chân Thiên triều, làm gương cho các nước khác. Sau là để cắt đứt nguồn tiếp tế cho lũ phản tặc Hồng Hoa hội.

Trẫm quyết định ban soái kỳ, kiếm lệnh cùng ấn tín cho Nghi Thân vương Vĩnh Tuyền. Lại sắc phong cho làm Chinh Nam Đại Nguyên soái, lãnh binh năm mươi vạn. Khanh hãy thay Trẫm dạy cho chúng biết thế nào là uy quyền và cơn thịnh nộ của Thiên tử.

Khâm thử!”


Lúc này cũng vừa khéo chính Ngọ. Một hồi trống lệnh vang lên. Viên thái giám lại nói to: “Mời Nghi Thân vương Vĩnh Tuyền lên đài bái tướng”.

Vĩnh Tuyền chắp tay dạ ran rồi bước từng bước vững chãi lên đài. Hôm nay, y trông thật oai phong trong tướng bào, đầu đội hổ quan, khác hẳn dáng vẻ nho nhã ngày thường. Đến trước mặt Gia Khánh, y quỳ xuống hành lễ:

- Hoàng đệ Vĩnh Tuyền bái kiến Hoàng huynh. Cung chúc Hoàng huynh vạn tuế… vạn tuế… vạn vạn tuế…

Viên thái giám lại nói: “Mời Hoàng thượng ban soái kỳ, kiếm lệnh, ấn tín cho Nghi Thân vương”.

Từng món tín vật đại biểu cho quyền lực của nguyên soái được Gia Khánh tận tay giao cho Vĩnh Tuyền. Đoạn, ông ta nói:

- Hoàng đệ! Nay trẫm gia phong cho đệ là Chinh Nam Đại Nguyên soái. Đệ hãy thay trẫm mà lãnh hai mươi lăm vạn quân thuộc Phó Hoàng Kỳ và hai mươi lăm vạn quân thuộc Chính Hồng kỳ đi thảo phạt lũ man di. Trận này, đệ hãy một lần xóa tên An Nam, sát nhập chúng vĩnh viễn vào cương thổ Đại Thanh.

- Hoàng đệ lĩnh chỉ và quyết không làm nhục mệnh.

- Tốt lắm, đệ hãy bình thân và nói vài lời trước mặt ba quân, ủy lạo tinh thần binh sĩ, thể hiện uy nghiêm của Đại Nguyên soái.

Vĩnh Tuyền lại vâng dạ rồi đứng lên. Y hướng xuống dưới đài nói một tràng dài để thể hiện uy nghiêm. Y nói cũng nhiều lắm. Nào là mỗi nam tử Hán phải biết xả thân vì nước, vì Thiên tử. Nào là Việt Nam là lũ rợ An Nam, nhiều lần xúc phạm Thiên triều. Nào là Việt Nam chính là đầu sỏ xúi dục Hồng Hoa hội làm phản. Và còn nhiều, nhiều nữa. Y lại nói lần này mỗi binh sĩ đều mang trên mình một sứ mạng vinh quang, công lớn lưu danh nghìn thu.

Buổi lễ tế cờ bái tướng đến đây cũng kết thúc với tiếng hô vang của quân sĩ. Vĩnh Tuyền lại định năm ngày sau, tức ngày 21 tháng mười một, nhằm ngày 1 tháng 10 năm Ất Sửu sẽ chính thức động binh.

……………

Ngay sau lễ tế cờ của Đại Thanh, Toản cùng triều thần tại Phú Xuân cũng nhận được tin tức từ chim ưng truyền thư của những nhân viên CPQ cài sâu trong lãnh thổ đối phương. Các tin tức khác về động tĩnh của năm mươi vạn quân cũng nhanh chóng truyền về. Một cuộc họp quân cơ lập tức được tổ chức dưới sự chủ trì của Toản.

Bước vào cuộc họp, mọi người thấy thần sắc của nhà vua hồng nhuận, tươi tắn, nào thấy dấu vết của bệnh tật. Lại nữa, tinh thần của anh sảng khoái vô cùng. Như vậy, quả là trước đây tin anh bị đột quỵ là giả. Tất cả chỉ để nhằm che mắt nhà Đại Thanh. Và người Phương Bắc đã trúng kế. Họ gấp rút tiến hành chiến tranh.

Mỉm cười với bá quan, Toản nói:

- Các vị khanh gia! Người Phương Bắc đã trúng kế. Chúng đã gấp rút điều binh. Theo thám báo, ngày hai mươi mốt sắp tới, tức là còn hai ngày nữa, chúng sẽ tràn qua lãnh thổ nước ta. Các khanh hãy mau phân tích tình hình.

Đông Định vương Nguyễn Phi Long vốn là Giám đốc CPQ lúc này lên tiếng:

- Bẩm Bệ hạ cùng các vị đồng liêu. Tin tức của thám báo CPQ truyền về cho biết Đại Nguyên soái giặc là Nghi Thân vương Vĩnh Tuyền. Y tuổi đời còn khá trẻ, lại khá hiếu thắng. Y lãnh năm mươi vạn quân, chia làm hai lộ quân. Lộ thứ nhất gồm hai mươi lăm vạn quân Phó Hoàng kỳ, hiện đang đóng ở Hồng Hà, hành tỉnh Vân Nam. Hướng đi của lộ quân này dự kiến là sẽ đánh vào Hà Giang. Lộ thứ hai gồm hai mươi lăm vạn quân Chánh Hồng kỳ, hiện đang đóng ở Sùng Tả, hành tỉnh Quảng Tây. Lộ quân này dự kiến sẽ đánh vào Lạng Sơn. Theo tin tức báo về, Vĩnh Tuyền sẽ nắm lộ quân thứ hai. Nắm giữ lộ quân thứ hai lại là người quen của chúng ta, Tổng đốc Lưỡng Quảng Ngô Hùng Quang.

- Ha… ha… ha… – Quang Thùy cười lớn – Thằng già Ngô Hùng Quang chắc là chê hai mươi trượng vào mông còn chưa đủ đây mà.

- Lần này nếu bắt được y, Bệ hạ hãy cho thần tự tay tặng hắn hai mươi trượng, à không, năm mươi trượng vào mông nhé – Nguyễn Văn Tuyết vừa cười, vừa nói.

Thật là hết hiểu nổi. Có ai dám tin đây là cuộc họp bàn kế sách chiến tranh không đây? Người nào người nấy đều cười đùa vui vẻ. Thật, điều này chỉ thấy ở Việt Nam dưới triều Cảnh Thịnh mà thôi. Lúc này, Nguyễn Ánh mới nói với mọi người:

- Thôi, mọi người đừng đùa nữa. Quang Thùy, nghĩa phụ trước nay chưa từng nghĩ con lại như thế này, phải nghiêm nghị lắm chứ. Còn nữa, lã Tuyết, lão cũng thật là. Già rồi mà vẫn hùa cùng đám trẻ mà cười đùa.

- Nghĩa phụ à – Thùy lắc đầu, le lưỡi nói. – Bản tính con là vậy mà. Trong ba anh em thì trừ chú t.ư là Hoàng đế phải nghiêm nghị ra, con và chú ba Bàn lúc nào cũng vậy. Tạo không khí mà nghĩa phụ.

- Thôi được rồi anh hai. Nhiều lúc em không dám tin mình có hai người anh như vậy nữa đó. Nào, các khanh hãy tính toán xem chúng ta phải làm thế nào đi.

Nguyễn Quang Huy vốn là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nên lúc nào cũng phải là người phát pháo trước. Anh nói:

- Bẩm Bệ hạ! Hiện tại, Quân đoàn một đang đóng ở phía Bắc, lúc nào cũng trong t.ư thế sẵn sàng chờ lệnh. Quân đoàn bốn thì đang gấp rút di chuyển, hiện cũng đã ở ngoài Thăng Long rồi. Hạm đội bốn cũng đã sẵn sàng ngoài vịnh Bắc Bộ. Tất cả chỉ còn chờ Bệ hạ sắp xếp mà thôi.

- Bẩm Bệ hạ - Thượng tướng quân Đặng Văn Long nói. – Thần nghĩ, trước ta phải sắp xếp xem quân đoàn nào sẽ đối đầu lộ quân nào.

- Chú Long, chú nói vậy thì chắc là cũng đã có chủ ý. Chú nói trẫm và mọi người nghe thử xem.

- Thần thấy, Quân đoàn một trước giờ ở Bắc Hà, xưa nay vốn đã quen thuộc địa hình, lại thiện chiến. Thế nên ta có thể điều lên đón đầu lộ quân thứ nhất của chúng và bắt giữ Vĩnh Tuyền. Còn Quân đoàn bốn vốn dĩ trước nay phục vụ dưới quyền của Thái thượng hoàng, đã quen chinh chiến xa nhà và có sở trường tác chiến ở đồng bằng. Thế nên, ta cho họ đón đầu lộ quân thứ hai. Phần hạm đội bốn, hãy cho họ chờ người Anh Cát Lợi tiến công rồi mới hành động.

- Có lý. Thần đồng ý với lão Long – người mới lên tiếng là Thượng tướng quân Nguyễn Huỳnh Đức. – Thần hiểu rất rõ Quân đoàn bốn. Họ thật sự có sở trường tác chiến ở đồng bằng và công thành chiếm đất. Lý ra, thần đã muốn xung phong, xin Bệ hạ cho cầm quân. Thế nhưng, thần cũng hiểu tâm t.ư của Bệ hạ. Chúng thần dù là người cũ phương nam hay Thất Hổ Tây Sơn hay Ngũ Phụng Thư đều đã già rồi. Chúng thần nên tạo điều kiện cho lớp trẻ thể hiện tài năng.

Phải nói thêm một chút. Hàm Thượng tướng quân đối với quân đội Việt Nam mang ý nghĩa danh dự nhiều hơn và những người có quân hàm này đều là những tướng quân dạn dày kinh nghiệm. họ sẵn sàng lui về hậu phương, đảm nhiệm việc đào tạo, hoạch định và tham mưu cho quân đội. Tất cả đều nhường cho lớp trẻ thể hiện tài năng. Ngoài Tây Sơn Thất Hổ, Ngũ Phụng Thư, còn có năm vị mang quân hàm này là Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại.

Thượng tướng quân Lê Văn Duyệt vốn là người mưu trí, trước nay luôn giữ vai trò quân sư cho Nguyễn Ánh. Sau khi Sài Gòn định hình, ông cũng lui về, giữ một vai trò quan trọng trong Ban Tham mưu, Bộ Chính trị. Duyệt thưa:

- Bẩm Bệ hạ! Lúc trước, ta đã định sẽ cho chúng thắng những trận đầu để tạo cái cớ. Thế nên, với lộ quân thứ nhất, thần nghĩ chúng ta cứ cho chúng chiếm cứ Hà Giang. Quân đoàn một sẽ chia ra kiểm soát Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Lào Cai. Nhiệm vụ của họ là nhốt chúng gọn trong Hà Giang. Với lộ thứ hai, ta cứ để cho chúng một đường thuận lợi áp sát Thăng Long. Tức là cứ cho chúng tiến quân qua Lạng Sơn, Thái Nguyên. Quân đoàn bốn lại chia làm hai, một trấn thủ Bắc Giang, một trấn thù Bắc Thăng Long. Dù sao y cũng là người quen, lại khi dễ người Việt mà.

- Ý khanh là chúng ta chơi đòn tâm lý với chúng? Lộ thứ nhất do Vĩnh Tuyền nắm, thấy khó khăn trong việc tiến lên nên sẽ dịch dần qua hướng đông, chúng ta sẽ mai phục và cắt đôi lộ quân này. Còn lộ quân thứ hai sẽ nhanh chóng khinh địch mà kém đề phòng. Khi lộ quân này áp sát Thăng Long, một nửa Quân đoàn bốn sẽ tập hậu chúng. Trẫm nói thế có đúng không? – Nguyễn Ánh hỏi.

- Thái thượng hoàng! Ngài nói thế là đúng, nhưng chưa đủ. Thần muốn làm như thế là để trong lúc này, Bệ hạ sẽ soạn một chiếu thư công bố với toàn dân. Rằng chúng thừa cơ Bệ hạ đang bệnh, quốc sự chậm trễ mới có thể lấn sâu vào. Để cho dân chúng biết không phải là chúng ta yếu mà là vì bận bịu nên mới như vậy. miền Bắc hiện nay chủ yếu là do các vị tù trưởng, già làng các dân tộc anh em ít người trấn thủ. Khi chiếu ban ra, họ sẽ có lòng tin là chúng ta không bỏ rơi họ mà không biết rằng đây là sự sắp xếp có chủ đích. Như vậy thì chính nghĩa sẽ nằm trong tay ta. Và lần chinh phạt sắp tới cũng sẽ làm nức lòng mọi người.

- Kế hay lắm, lão Duyệt – Thượng tướng quân Trần Quang Diệu nói. – Nói thật nhé, ngày trước tôi không hề e ngại lão Tánh, lão Đức hay lão Thành mà chính là lão đó. Lão xứng đáng được xem là bộ não của toàn quân.

- Không dám. Lão thì có kém gì tôi. Cũng là quỷ kế đa đoan đấy thôi.

Hai vị tướng già, ông tung tôi hứng, cùng cười phá lên. Nhưng đúng là họ phục nhau thật đấy. Câu “người hiểu rõ anh nhất chính là kẻ thù của anh” là hoàn toàn chính xác. Giờ đây, hai người vốn là kẻ thù của nhau lại đứng cùng chiến tuyến, tình cảm giữa họ phút chốc trở nên chan hòa và thân ái.

- Bệ hạ! – Nguyễn Quang Huy nói – Thần đồng ý với hai vị lão tướng quân. Đây là một kế sách hay.

- Trẫm cũng thấy thế – Toản nói. – Tài trí của chú Duyệt, bản thân trẫm chưa hề nghi ngờ. Mưu kế lần này của chú lại càng chứng tỏ được điều đó. Nghĩa phụ à, đâu phải là chỉ có Tây Sơn Thất Hổ mới là giỏi. Cha cũng thấy mấy chú Duyệt, Đức, Thành, Tánh cũng là bậc trí dũng song toàn đó thôi. Nói thật, con rất hâm mộ các chú đó, nghĩa phụ à.

Nghe thế, Ánh cũng thấy sướng vui trong bụng. Ít ra, ông nghĩ ngày trước mình thua không phải là vì mình không có đủ người tài và binh lực. Cái thua lớn nhất nằm trong hệ thống vũ khí mà thôi.

Cuối cùng, mọi người đều đồng ý với kế sách này. Ngày 21 tháng 11, quân Thanh tràn qua bờ cõi Việt Nam. Đúng như dự định, lộ quân thứ nhất do Vĩnh Tuyền làm chủ tuy chiếm được Hà Giang nhưng lại gặp phải sự kháng cự cực mạnh của Quân đoàn một. Cho tới một tuần lễ sau, chúng không thể tiến thêm một bước. Với quân số đông đảo lên tới hai mươi lăm vạn, tức là hai trăm năm mươi nghìn, tưởng rằng Quân đoàn một với hơn bốn mươi nghìn người cũng phải trả ra cái giá rất đắt để kìm chân. Thế mà, mỉa mai thay, Quân đoàn bốn chưa hề mất một binh một tốt nào. Tổng t.ư lệnh Quân đoàn một là Đại tướng Trần Vũ, một vị tướng trẻ, năm nay mới chỉ hai mươi tám tuổi đã lợi dụng địa hình, phát huy đến mức cao nhất chiến thuật du kích để nhốt chúng lại trong đất Hà Giang. Với lợi thế tầm bắn xa của TSG02 cùng với sự thoắt ẩn, thoắt hiện của binh sĩ, Quân đoàn một dần trở thành ác mộng của Vĩnh Tuyền khi mỗi ngày trôi qua là y phải mất hơn hai trăm người. Cùng lúc đó, Ngô Hùng Quang nhờ sự “giúp đỡ” của Quân đoàn bốn của Tổng t.ư lệnh, Đại tướng Phạm Văn Dễ đã tiến rất sâu vào. Cũng qua một tuần, lộ quân thứ hai đã bắt đầu áp sát Thăng Long.

Lúc này, Vĩnh Tuyền quyết định thay đổi chiến thuật. Y bắt đầu chuyển quân sang Lạng Sơn, nơi mà nhà Thanh đã chiếm được, dự là sẽ đánh vào sau lưng Quân đoàn một rồi mới cùng lộ quân của Ngô Hùng Quang, hai mặt giáp công Thăng Long. Lại nữa, y sai người lệnh cho Ngô Hùng Quang dừng bước mà chờ mình. Chính mệnh lệnh này đã làm cho Ngô Hùng Quang bất mãn. Cũng phải thôi, Ngô Hùng Quang nghĩ: “Vĩnh Tuyền quả thật chỉ là công tử bột. Cùng xuất quân với nhau, thế mà ta đã tiến được đến đây trong khi hắn vẫn còn bị trói chân ở đất Hà Giang. Hắn lệnh cho mình dừng lại là sợ mình tranh công đây mà”. Nghĩ như vậy nhưng Ngô Quang Hùng cũng chấp hành mệnh lệnh này. Y cũng muốn binh sĩ nghỉ ngơi đôi chút.

Vậy là bước đầu tiên trong kế sách Bắc phạt của Toản đã thành công. Việc tiếp theo mới chính là màn chính của vở kịch mà anh chính là đạo diễn vốn đã ấp ủ bấy lâu. Và cũng từ giờ phút này, con rồng Việt Nam mới bắt đầu gầm lên, làm rung chuyển một góc trời.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 63: Bắt sống Vĩnh Tuyền
Chương 63: Bắt sống Vĩnh Tuyền

“Trung Hoa phương bắc, đất bao la

Cần chi nam tiến gây thù oán?
Công thành chiếm đất nước Nam ta
Một đòn quét sạch, chớ bảo oan”

Lời thơ ấy không biết từ đâu vang vọng trong một đêm cuối tháng mười một bên bờ nam sông Hồng. Trong cái vẻ tĩnh mịch và lạnh lẽo, bài ca ngâm cứ thế gieo vào lòng những binh sĩ Đại Thanh. Đây chính là lộ quân thứ hai do Ngô Hùng Quang làm thống lĩnh. Họ vốn dĩ đã rất bực dọc do lệnh hạ trại chờ hội quân của Đại Nguyên soái. Đã ba ngày rồi, họ vẫn chưa thấy được bóng dáng của lộ quân kia. Thế mà cứ đêm đến, bài thơ kia cứ mãi được cất lên. Giọng thơ vừa mang tính thê lương, lại có vẻ giận dữ cứ thế vang vọng như lời ai oán của những linh hồn ở chốn cửu u muốn đòi mạng.

Không riêng gì binh sĩ, người giận nhất chính là Ngô Hùng Quang. Binh pháp có câu “Binh quý thần tốc. Thế mà ba ngày, đã ba ngày nay lộ quân này đã phải chôn chân tại đây. Y tỏ ra bực bội vô cùng. “Mà kể ra lúc man di này cũng lạ. Thành quách chả ra hồn người khi mà chẳng thấy hình thù của tường thành. Ấy vậy mà chúng đòi một đòn diệt sạch quân ta”, y nghĩ thầm.

“Chẳng lẽ chúng đang đợi điều gì khi mà đêm nào cũng ngâm thơ?” “Đứng ở bờ Bắc con sông này, mọi động tĩnh trong thành ta thấy hết. Rõ là ban ngày ta vẫn thấy được cư dân buôn bán, đi lại như thường ngày. Thế này là thế nào? Thế này đâu có giống như đang chiến tranh”. Các câu hỏi như thế cứ ong ong vang lên trong đầu viên Phó Nguyên soái.

“Thôi chết! Đã ba ngày nay không nghe được tin tức gì của thằng lõi Vĩnh Tuyền. Lẽ nào...?”

Ngô Hùng Quang bất chợt suy nghĩ thế rồi bước tới tấm bản đồ làm bằng da dê được căng lên trong trướng chỉ huy. Y nhìn thấy gì? Vẻ hoảng hốt và lo lắng hằn lên khuôn mặt đen sạm của y.

“Thôi đúng rồi. Vĩnh Tuyền không thể tiến lên được bước nào, bị vây ở Hà Giang rồi. Y chỉ còn một cách là vòng sang đây. Địa hình ở đây là núi rừng trùng điệp. Đường xá lại dài và nhỏ hẹp. Vĩnh Tuyền vòng sang đây chắc chắn phải trải quân dài ra. Lũ man di An Nam chỉ cần phục kích ở mấy nơi này là có thể xé nhỏ và tiêu diệt. Chúng sẽ vòng ra sau lưng quân ta. Thế này thì...” Lưng áo Ngô Hùng Quang bất chợt ướt đẫm mồ hôi khi nghĩ đến những điều này.

“Người đâu! Mau gọi Hồ Sĩ Nguyên, Vệ Minh đến đây cho ta!” Y lớn tiếng quát tên lính đang đứng gác bên ngoài. “Phải hành động. Nhanh chóng hành động thôi”.

Một lát sau, hai phó tướng của y là Hồ Sĩ Nguyên và Vệ Minh vén cửa, bước vào trong trướng. Phải hiểu giờ này đã rất khuya, cũng dễ là hơn hai giờ sáng rồi. Cả hai viên tướng bước vào dù rất cố gắng nhưng cũng không thể giấu được vẻ mệt mỏi và buồn ngủ. Họ đều nói: “Phó Nguyên soái, đại nhân cho gọi chúng mạt tướng? Có việc gì thế?” Nhìn hai người, Ngô Hùng Quang hỏi:

- Tới rồi à? Hai ngươi có thấy chuyện lạ gì không?

- Ý Phó Nguyên soái là quan quân đám man di này à? Thế thì chả có gì bất thường cả - Hồ Sĩ Nguyên nói.

- Mạt tướng cũng thấy vậy.

- Đồ ngu – Ngô Hùng Quang quát. – Không có gì bất thường chính là rất bất thường đó. Các ngươi làm tướng bao lâu rồi mà sao không tỏ?

Hai viên phó tướng nhìn nhau, cúi đầu tỏ vẻ không hiểu. Ngô Quang Hùng lại nói:

- Sao lại im lặng? Sao không nói gì? Ta bảo các ngươi ngu còn chưa đúng. Phải nói là ăn hại. Cố động não chút đi. Tại sao chúng ta một đường thuận lợi đến đây? Tại sao Vĩnh Tuyền mãi không tiến lên được một bước? Tại sao ba ngày nay vẫn không có tin gì của y? Tại sao cho tới giờ lũ An Nam vẫn áng binh bất động?

- Phó Nguyên soái! Ý của tướng quân phải chăng là lũ man di kia sợ chúng ta bên này mà lo xử lý cánh quân kia trước? – Vệ Minh hỏi.

- Tới giờ phút này mà ngươi còn dám gọi chúng là man di sao? Các ngươi không thấy chúng rất phát triển sao? Man di mà có thể làm được thế này sao?

Ngô Hùng Quang tức giận hỏi một tràng. Đoạn y lắc đầu nói tiếp, giọng điệu có vẻ dịu hơn đôi chút:

- Các ngươi chưa đến Kinh thành của bọn chúng. Ngay cả cố đô cũng chỉ là nhìn từ bên ngoài, chưa hiểu được bọn chúng phát đạt thế nào. Các ngươi đâu có hiểu vì sao lần trước ta phải dùng đường biển để về nước mà không đi đường bộ.

- Phó Nguyên soái – Vệ Minh lại nói. – Chúng mạt tướng biết sai rồi. Xin tướng quân cho chúng mạt tướng biết vì sao lũ man... À, An Nam kia phải làm như vậy.

- Rõ ràng không phải là chúng lánh mạnh mà đánh yếu đâu. Đây là bọn chúng đã sắp đặt ngay từ đầu. Ta e là đã trúng kế bọn chúng rồi. Các ngươi nghĩ xem, cả nước bọn chúng chỉ có một mống dân bé tẹo. Bởi thế, chúng phải dùng mưu. Các ngươi lại đây.

Nói rồi y chỉ vào bản đồ, nói cho hai viên phó tướng những suy nghĩ của mình. Giọng nói của y lúc này không còn vẻ bực dọc nữa. Hai người kia nghe xong bất giác cảm thấy lo sợ. Hồ Sĩ Nguyên nói:

- Vậy theo ý của Phó Nguyên soái có phải là thế này không? Với chúng ta, bọn họ dùng kế kiêu binh. Với cánh quân kia, họ dùng kế lùa dê vào rọ.

- Chính là như thế.

- Vậy ra tình thế chúng ta hiện vô cùng nguy cấp. Chúng sẽ đánh hậu, hai mặt, à không, bốn mặt giáp công chúng ta.

- Mạt tướng nghĩ. Sở dĩ cho đến lúc này chúng vẫn chưa động binh với ta là có lý do. Một là chúng muốn làm tinh thần binh sĩ ta mệt mỏi. Hai là chúng cũng đang đợi cánh quân kia bị diệt rồi mới phản công vây hãm chúng ta. – Võ Minh cũng góp thêm.

- Đúng vậy.

- Vậy ý Đại Nguyên soái bây giờ thế nào? – Vệ Minh hỏi tiếp.

- Tấn công. Ngay sáng sớm, chúng ta sẽ tấn công. Mặc kệ cái lệnh chết tiệt kia. Nếu chờ lâu hơn sẽ đâm ra hỏng bét.

Hai viên phó tướng lúc này đã hiểu ra, vẻ mặt hết sức nghiêm trọng và chờ đợi. Ngô Hùng Quang bắt đầu phân phó:

- Hồ Sĩ Nguyên! Ngươi dẫn theo bảy vạn năm nghìn quân, đầu giờ Thìn đồng loạt vượt sông.

- Mạt tướng tuân lệnh!

- Vũ Minh! Ngươi lĩnh bảy vạn năm nghìn quân cố thủ ở hậu quân phòng ngừa chúng đánh lén. Ta sẽ dẫn mười vạn trung quân vượt sông ngay sau Hồ Sĩ Nguyên.

- Mạt tướng tuân lệnh!

- Được rồi. Các ngươi về chuẩn bị ngay cho kịp.

...............

Cách Cao Bằng hai mươi hai kí lô mét là đèo Mã Phục, đèo cao sáu trăm hai mươi mét với bốn tầng dốc để lên tới đỉnh. Đèo đựơc gọi là Mã Phục vì ở hai bên con đường nhỏ hẹp có hai khối đá vôi lớn thành dốc đứng chầu vào nhau như hai con ngựa nằm phủ phục. Đó là một nếp uốn đá vôi lớn mà đỉnh của nếp uốn bị phá huỷ, hai cánh còn lại châu đầu vào nhau tựa như hai con ngựa.

Đây cũng chính là ngọn đèo mà Vĩnh Tuyền phải đi qua nếu muốn hội quân với Ngô Hùng Quang. Y không còn cách nào khác. t.ừ Hà Giang, con đường ngắn nhất đến Thăng Long là đi qua Tuyên Quang, Vĩnh Phúc. Một con đường khác là đi qua Bắc Kạn, Thái Nguyên. Tuy nhiên, cả hai con đường này đều bị khóa chặt bởi những người lính du kích của Quân đoàn một. Vả lại, cả hai con đường này đều bắt buộc phải đi qua khá nhiều địa điểm núi rừng hiểm trở, rất thích hợp để đặt phục binh. Vĩnh Tuyền bởi thế nên buộc phải chọn một con đường xa nhất, đi qua Cao Bằng, Lạng Sơn rồi vượt Thái Nguyên mới có thể đến đích. Con đường này tuy dài nhưng ngoài Cao Bằng, Vĩnh Tuyền phải hành quân cẩn thận, còn lại hai địa phương khác vốn dĩ đã bị Ngô Hùng Quang chiếm được.

Vĩnh Tuyền hành quân rất nhanh, chỉ trong một ngày sau khi quyết định chuyển hướng tiến công để đến đây chỉ mất hơn nửa ngày. Y nhanh chóng cho binh sĩ hạ trại nghỉ ngơi, dự định đến ngày hôm sau mới vượt đèo. Kể ra thì Vĩnh Tuyền cũng khá cẩn thận. Ngọn đèo này thật ra cũng chỉ là một ngọn đèo thấp. Hai bên cũng chỉ là những vách núi thoai thoải, muốn tìm một điểm để đặt phục binh cũng khó. Y cho binh sĩ nghỉ ngơi rồi sai mấy người đi do thám địa thế và xem thử có an toàn để vượt qua hay không. Kết quả là ngọn đèo an toàn.

Sáng sớm hôm sau, Vĩnh Tuyền phát lệnh hành quân vượt đèo. Nhìn t.ừ trên cao, đoàn quân trải dài t.ừ đỉnh, kéo dài đến tận chân đèo. Mãi đến khi không còn người nào dưới chân đèo, t.ừng loạt tiếng hô “Giết… Giết… Giết…” vang lên làm mỗi binh sĩ như bị chấn động đến tận tâm can.

Rõ ràng buổi chiều tối hôm qua, Vĩnh Tuyền đã cho người đi do thám địa hình. Mọi việc vốn dĩ rất bình thường, không có thấy bóng dáng một binh một tốt nào của Việt Nam. Thế thì tiếng hô chém giết kia xuất phát t.ừ đâu ra? Cả đoàn quân dừng lại. Mỗi binh sĩ lại dáo dác nhìn xung quanh. “Quái lạ, tiếng hét vang lên nhưng sao lại không thấy người nào? Chẳng lẽ có ma?” đó cũng chính là suy nghĩ của họ lúc này. Thế rồi, mọi người bỗng cảm thấy có một nỗi sợ vô hình dâng lên trong lòng.

Tiếng hô giết cứ mỗi mười phút lại vang lên một lần. Đến lần thứ năm, lộ quân của Vĩnh Tuyền bỗng nghe những tiếng rít gió t.ừ trên không trung. Phải biết đèo này có tên là Mã Phục bởi có hai ngọn núi thấp hướng vào nhau như hai cái đầu ngựa đang cúi xuống. t.ừ trên đỉnh ngọn núi nhỏ đối diện, trên mặt đất và vách núi, người ta nhìn thấy có những cánh cửa hầm mở ra, t.ừng dàn phóng tên lửa xuất hiện. Những tiếng rít xé gió gây ra chính bởi những quả tên lửa rợp trời lao đến.

Lộ quân của Vĩnh Tuyền lúc này không có chỗ nào để núp. Những quả tên lửa lúc này cũng chẳng cần phải tính toán trúng mục tiêu, chỉ cần chúng rớt xuống trên đường đèo là đủ. Quân Thanh lúc này chạy tán loạn, rên la thảm thiết. Nếu nói đúc súng hay đóng thuyền thì phải rất lâu mới hoàn thành một sản phẩm nhưng với tên lửa thì lại khác. Chúng được làm t.ừ tre, một loài cây mọc rất nhiều ở Việt Nam. Thứ duy nhất được làm t.ừ kim loại cũng chỉ có phần đầu đạn rỗng được nhồi đầy thuốc nổ. Bởi vậy, số lượng của chúng thì nhiều vô kể. Cũng cần phải biết, một quả tên lửa uy lực tuy không cao, mỗi quả chỉ có tầm sát thương trong bán kính năm, sáu mét nhưng với số lượng hàng nghìn quả liên tiếp phát nổ cũng dư sức xé đoàn quân đang hoảng hốt thành t.ừng mảnh nhỏ.

Quân Thanh lúc này tiến thì không thể, chỉ còn biết lùi lại phía sau. Nhưng nói lùi cũng chỉ là nói, thực tế thì khác hẳn. Với sự bố trí của Quân đoàn một, các sư đoàn bộ binh vốn đã tiềm phục sẵn trên các ngã đường liên tục gặt hái sinh mạng của đám tàn quân. Mà bố trí của Quân đoàn một cũng đâu đơn giản như thế. t.ừ hướng Cao Bằng, tiểu đoàn kỵ binh số một và số hai vượt đèo, truy đuổi ráo riết. Hai mươi lăm vạn quân Thanh lúc này chỉ còn hơn mười lăm vạn. Quân số như vậy kể cũng rất nhiều, gấp gần bốn lần quân số của Quân đoàn một. Nhưng đám quân này còn có thể uy hiếp được ai khi mà mỗi binh sĩ đã rơi vào hoảng loạn, ngay cả vũ khí, quân kỳ cũng đành vứt bỏ mà chạy tán loạn.

Phải nói Quân đoàn một ít hơn giặc đến hơn năm lần ban đầu vốn dĩ tưởng chừng như sẽ dễ dàng bị nghiền nát. Nhưng với ưu thế về địa hình, đặc biệt là vũ khí mà nổi bật chính là những quả tên lửa, quân Thanh hầu như không còn tính uy hiếp nào. Họ dần bị dồn vào một vùng bình nguyên rộng dưới chân đèo. Bốn phương, tám hướng xung quanh là các sư đoàn bộ binh với những binh sĩ lăm lăm những khẩu TSG02 trên tay, sẵn sàng nổ súng.

Lúc này, có tiếng loa vang lên: “Ta là Đại tướng Phùng Ngọc Viễn, Tổng t.ư lệnh Quân đoàn một. Binh sĩ nhà Thanh hãy buông khí giới mà đầu hàng. Bằng không, đừng trách chúng ta vô tình. Ta lặp lại, hãy buông khí giới đầu hàng. Trong nửa canh giờ nữa, các người chưa chịu đầu hàng thì chính là lúc toàn quân bị diệt”.

Lúc này, Vĩnh Tuyền gọi phó tướng của mình là Vương Nham, Phúc Mộc Thanh và Na Lạp Đôn lại bàn bạc. Y nói:

- Các tướng tính xem chúng ta còn bao nhiêu quân.

- Đại Nguyên soái – Na Lạp Đôn nói, – chúng ta còn hơn mười lăm vạn quân.

- Thế thì chúng ta vẫn còn có thể giết sạch bọn chúng. Ta đoán, nhiều lắm chúng chỉ có mười vạn.

- Nguyên soái – Vương Nham nói, – nếu trước đây thì được. Bây giờ thì hơi khó.

- Hừ… – Na Lạp Đôn t.ức giận. – Ông nói thế là sao? Chẳng lẽ chịu đầu hàng à? Thế thì còn gì là thể diện của Thiên triều? Phải chăng ông chính là muốn làm phản, theo phe lũ man di đó?

- Ông bình tĩnh mà nghe tôi nói. Nguyên soái, hai vị tướng quân. Ý tôi là binh sĩ của chúng ta bây giờ tâm hoảng, khí loạn. Nếu dàn trận đánh nhau với bọn chúng một trận thì không thể. Nhưng nếu cho kỵ binh xếp thành hình mũi tên, mở một đường thì chúng ta có thể khoan thủng phòng tuyến của chúng mà thoát khốn.

- Ông nói thì dễ lắm – Phúc Mộc Thanh nãy giờ im tiếng mới nói. – Nên nhớ chúng còn có những mũi tên kỳ lạ, uy lực khủng khiếp như mới vừa nãy.

- Không cần phải sợ. Tôi nghĩ, vũ khí này tuy uy lực mạnh nhưng chắc số lượng không có bao nhiêu đâu. Vừa nãy chúng đã dùng chắc cũng gần hết. Minh chứng là tại sao t.ừ nãy đến giờ, chúng không còn sử dụng nữa.

- Ta cũng đồng ý với Vương Tướng quân – Vĩnh Tuyền nói. – Ta đang t.ự hỏi tại sao chúng cho ta nửa canh giờ. Có lẽ là để chúng có đủ thời gian chuẩn bị cho số lượng tiếp tế loại vũ khí này. Vậy thì chúng ta phải hành động thật nhanh.

- Nguyên soái – Vương Nham lại tiếp. – Chúng ta nên xếp thành hai tầng đội hình mũi tên. Nếu như chúng còn một ít thì chỉ có thể bẻ gãy đội hình thứ nhất thôi. Đây là loại vũ khí chỉ dùng một lần. Lúc đó, đội hình thứ hai lại xung phong và chúng ta sẽ an toàn.

- Vậy theo các tướng, chúng ta phải rút về hướng nào?

- Nguyên soái, chúng ta nên theo hướng Bắc mà rút về thác Bản Giốc – Phúc Mộc Thanh nói.

- Tốt! Vậy các tướng mau về chuẩn bị, hai khắc nữa chúng ta hành động.

Hai khắc cũng chính là ba mươi phút. Thời gian mau chóng trôi đi. Đúng lúc này, một hồi kèn lệnh cất cao, một tốp kỵ binh quân Thanh bằng tốc độ nhanh nhất lao đi về hướng Bắc, nơi có Sư đoàn bốn bộ binh đang trấn giữ. Nửa khắc tiếp theo đó là một tốp kỵ binh khác.

Đón tiếp đội ky binh thứ nhất với gần một nghìn người là hơn hai trăm quả tên lửa. Và cũng chỉ có một loạt tên lửa này thôi. Tuy vậy, chúng cũng lấy đi hết tám phần mười đội kỵ binh này. Số còn lại thì không thể nào thoát khỏi những loạt đoạn của bộ binh.

Lúc này, Vĩnh Tuyền cười lớn:

- Ha… Ha… Ha… Quả đúng là chúng chỉ còn bấy nhiêu loại vũ khí đó. Toàn quân theo sát ta tiến lên.

Nói rồi y giục ngựa tiến lên nhưng tốc độ cũng không nhanh lắm. Còn phải nói. Dù gì thì y cũng là Hoàng thất, lẽ nào lại xung phong đi trước để nhận lấy cái chết. Chỉ tội cho đám binh sĩ và tướng tá cấp thấp phải lao lên mà hô giết.

Vĩnh Tuyền và Vương Nham đã tính đúng nhưng cũng chỉ đúng một nửa thôi. Bọn họ đã quên mất, Việt Nam ngoài tên lửa, súng trường bộ binh và thuyền chiến thì còn đó những khẩu đại bác có rãnh xoắn với uy lực vô song. t.ừng loạt tiếng nổ rung chuyển đất trời vang lên. Những quả đạn đại bác thậm chí còn có lực sát thương vượt xa tên lửa đã vùi dập hoàn toàn đội kỵ binh thứ hai cùng một phần lớn bộ binh chạy theo phía sau. Đoàn quân Thanh bất chợt phải khựng lại, người sau còn đà chạy lại xô ngã người trước. Một cảnh dẫm đạp lên nhau diễn ra.

Tiếng loa lại vang lên: “ Các người chê sống đã quá lâu sao? Nửa canh giờ chưa hết đã vội tìm chết. Dân tộc Việt ta vốn yêu chuộng hòa bình và khoan hồng. Chỉ còn gần một khắc nữa là hết giờ. Các ngươi buông khí giới đầu hàng vẫn còn kịp”.

Lúc này, binh si nhà Thanh sau hai đợt xung phong mở đường máu chỉ còn ngót nghét mười vạn. Họ đã sợ thật sự rồi. Không ai bảo ai, những người đứng đầu hàng bắt đầu buông vũ khí xuống. Có một thì ắt sẽ có hai. Những người khác thấy thế cũng làm theo, có người còn vì quá sợ mà té phịch xuống đất.

Mặc kệ tiếng quát tháo của những chỉ huy và thống lĩnh, số người chấp nhận đầu hàng ngày càng nhiều hơn. Vĩnh Tuyền cùng ba viên tham tướng lúc này cũng biết đại thế đã mất. Bọn họ cũng chấp nhận đầu hàng.

Vậy là lộ quân thứ nhất lúc này đã hoàn toàn sụp đổ. Tính đến thời điểm Ngô Hùng Quang quyết định vượt sông Hồng vẫn còn hơn một ngày. Phùng Ngọc Viễn cho sư đoàn bộ binh số một và số hai thu xếp đám hàng binh rồi t.ức tốc cùng phần còn lại của Quân đoàn một tiến nhanh về Thăng Long để tạo thành thế gọng kìm, khóa chết Ngô Hùng Quang.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 64: Sông Hồng nhuộm máu
Chương 64: Sông Hồng nhuộm máu

Lại nói về Ngô Hùng Quang. Vào đầu giờ Thìn, t.ức khoảng sáu giờ sáng, y cho binh sĩ bắt đầu vượt sông. Những chiếc cầu phao bằng gỗ nhanh chóng được hạ thủy. Quân Thanh lúc này không dám dùng những cây cầu được xây sẵn trên sông. Họ sợ người Việt đã động ta động chân lên đó. Họ cũng không dám cho binh sĩ hay ngựa bơi qua sông bởi sợ những thứ được đặt dưới lòng sông. Điều này âu cũng có lý. Có điều họ đã sai lầm hoàn toàn rồi. Những cây cầu này và lòng sông vốn dĩ không hề được sắp đặt gì cả. Thứ mà Quân đoàn bốn bố trí để chào đón họ lại chính là trên bờ, ở hai bên các cây cầu.

Nói như vậy cũng hơi khó hiểu. Nên biết, mỗi đầu cầu có một con đường. Nếu quân Thanh hành quân qua đây sẽ bình yên vô sự. Ấy thế mà họ lại chọn con đường khó hơn là dựng những chiếc cầu phao ở hai bên. Vùng đất họ đặt chân lên lại là những vùng đất chết, nơi Đại tướng Võ Khánh, con trai Thượng tướng quân Võ Tánh, người mà dân gian còn được biết với cái tên Võ Đông Sơ, cho chôn xuống đất những quả địa lôi.

Nên nhớ địa lôi vốn đã xuất hiện t.ừ thời nhà Minh, Trung Quốc. Đến tay người Việt, họ đã cải biến ra đủ loại địa lôi. Nhưng nhìn chung, địa lôi mà người Việt cải biến gồm hai loại: một loại là phát nổ ngay và loại kia là nổ chậm. Loại mà Võ Khánh dùng chính là địa lôi nổ chậm. Anh vốn muốn chờ một lượng lớn binh sĩ nhà Thanh bước vào thì chúng mới phát nổ. Nói là nổ chậm chứ thực tế thì chỉ mất hơn năm giây thì chúng đã phát huy tính sát thương của mình rồi.

Lúc này, t.ừng đoàn quân Thanh lần lượt vượt qua cầu phao, đặt chân lên bờ bên kia. Bọn họ cũng không vội vã tấn công. Chờ cho bảy vạn năm nghìn người đã tề t.ựu đông đủ mới có tiếng nói của Hồ Sĩ Nguyên: “Chúng binh sĩ, hãy cùng ta xung phong diệt sạch đám giặc cỏ An Nam này”.

Bắt đầu t.ừ đó, quân Thanh tràn tới như thác lũ. Trước mắt họ, Thăng Long không còn bất cứ một bức tường thành nào. Việc chiếm cứ vì thế chắc hẳn cũng sẽ rất nhẹ nhàng. Cứ thế, tiếng hô xung phong cứ vang lên không ngớt. Binh sĩ vẫn cứ chạy bộ, kỵ binh thì phi nước đại. Họ không hề biết dưới chân mình có những sợi dây. Đến khi một chú ngựa chạy phía trước khụy xuống do vấp phải dây thì họ mới biết cái gì đang chờ đón mình.

Ầm… ầm… ầm… Những quả địa lôi chôn sẵn lần lượt thi nhau phát nổ, tước đi khá nhiều sinh mạng binh sĩ. Nói là khá nhiều nhưng tính ra cũng chỉ có khoảng ba trăm người thương vong. Con số đó chỉ là muỗi so với quân số bảy nghìn năm trăm người của đội tiên phong và hai mươi lăm vạn của cả lộ quân.

“Hừ… Các người chỉ có bấy nhiêu đó thôi sao? Ta xem các người còn trò gì nữa”. Cũng không phải y khinh địch. Với những gì Ngô Hùng Quang nói đêm qua, Hồ Sĩ Nguyên biết Việt Nam không hề đơn giản như mình nghĩ trước đây. Nhưng y không tin lộ quân hai mươi lăm vạn của Vĩnh Tuyền sẽ nhanh chóng bị đánh bại. Mà cũng không nhất định là Vĩnh Tuyền sẽ bại trận. Hơn nữa, quân Thanh cũng quyết định đánh nhanh thắng nhanh nên Việt Nam sẽ không kịp chuẩn bị. Y hét lớn: “Không có gì phải sợ! Tiến lên cho ta. Chúng cũng chỉ có bấy nhiêu đó thôi”. Tiếng hô xung phong lại lần nữa vang rền.

Tiếng hô lớn đến nỗi ngay cả dân trong Cố đô Thăng Long cũng bị đánh thức sau giấc ngủ say nồng. Song, họ cũng không cần bận tâm bởi Bắc Định Vương Nguyễn Quang Thùy đang ở đây. Hơn nữa, ngoài kia là Quân đoàn bốn do một viên Đại tướng lẫy lừng uy danh Võ Khánh đã giăng sẵn một cái bẫy dành cho quân giặc.

Như hiểu được tâm t.ư của người dân, những quả tên lửa lại lần nữa phát uy. Chúng bay rợp trời. Tiếng rít phá không cao vút, nghe như tiếng sáo êm tai. Mà cũng không phải như là tiếng sáo được. Võ Khánh vốn là người lãng mạng, anh buộc vào mỗi quả tên lửa một cây sáo trúc nho nhỏ. Mỗi khi một quả tên lửa bay lên, tiếng sáo theo gió mà cũng xuất hiện. Anh nói đó chính là tiếng của t.ử thần đòi mạng quân thù. Quả là như vậy, t.ừng loạt tiếng nổ lớn đi kèm phía sau đang gặt hái sinh mạng của những kẻ xung phong. Binh sĩ Việt Nam giờ đây đã rất thành thục trong việc sử dụng loại vũ khí có tính sát thương tập thể này. Họ nhắm rất chuẩn xác nhằm tránh đi việc phá hủy đi những cây cầu. Còn cầu tạm à, mặc kệ đi. Mà đâu phải tên lửa chỉ tấn công đội quân tiên phong này. Ưu điểm của nó là bay rất xa. Vì thế, trung quân của nhà Thanh cũng phải hứng chịu những tổn thất ban đầu.

Quân Thanh bắt đầu ngã xuống như rạ. Ban đầu là vài trăm rồi lên vài nghìn. Mọi người cũng đừng nghi ngờ. Sở dĩ quân Thanh chết nhiều như vậy cũng bở bấy giờ họ vẫn còn đang áp dụng chiến thuật biển người. Nói biển người t.ức là cứ dùng quân số áp đảo mà lao lên. Lớp này ngã xuống thì lớp khác lại lao lên. Đến ngay như thời kỳ tiến bộ hơn, thế chiến thứ hai, khi họ phản công phát xít Nhật thì chiến thuật này vẫn được áp dụng. Có người còn nói phiếm, xe tăng quân Trung Hoa Dân Quốc cán lên thi thể đồng đội mà vượt sông. Ài… cũng bởi dân số của họ quá đông mà.

Khi số người chết đã lên đến con số hơn hai nghìn người, quân Thanh mới bắt đầu chùn chân, họ không dám tiến nhanh nữa và cũng không tập trung đông mà rải rác thành nhiều nhóm nhỏ hơn. Lúc này, cơn ác mộng của họ đã xuất hiện, những thớt voi cõng đại bác, “đặc sản” của quân đội Tây Sơn năm xưa. Những cỗ pháo đài di động này bắt đầu chầm chậm tiến lên, đại bác lại thi nhau nổ tung trời.

Những con ngựa chiến của kỵ binh nhà Thanh khi thấy t.ừng thớt voi lững thững bước tới, hú vang thì sợ hãi, tung hai vó trước lên trời mà chạy tán loạn, hất những người ngồi trên lưng té xuống đất. Mặt khác, trên mặt đất, những phên tre lấp đất cũng bay lên, để lộ ra những đường hào hẹp, đó chính là nơi mà bộ binh Quân đoàn một nấp sẵn và chờ đợi. Giờ đây, họ bỗng xuất hiện, lăm lăm TSG02 trên tay, tha hồ mà nhả đạn vào bất cứ mục tiêu di động nào.

Vỡ trận. Đó là t.ừ đúng nhất để hình dung tình cảnh của quân Thanh lúc này. Cũng phải thôi vì lúc này đã có một chiến tướng nhà Thanh t.ử trận. Không ai khác hơn, đó chính là Hồ Sĩ Nguyên. Y đã lãnh trọn một quả tên lửa cách đó không lâu. Toàn bộ đội tiên phong giờ như rắn mất đầu, binh sĩ buông bỏ vũ khí mà chạy tán loạn.

Ở trung quân, Ngô Hùng Quang thấy sự việc không ổn liền cho quân lui về phía sau. Kể ra kỷ luật quân đội của họ cũng khá là nghiêm minh khi mà Trung quân thì tháo lui trong khi Hậu quân do Vũ Minh thống lĩnh đứng lại yểm trợ. Binh sĩ nhà Thanh cho tới lúc này vẫn chỉ được trang bị gươm giáo và cung tên, chỉ có một số ít được sử dụng các loại súng kíp thô sơ.

Vũ Minh cho binh sĩ Hậu quân xếp đội hình, bắn tên về phía trước. Nguy mà không loạn, đó là điều thấy rõ ở nhóm quân này. Họ bình tĩnh tháo cung, lắp tên, giương cung rồi bắn theo t.ừng mệnh lệnh. Chẳng mấy chốc mà bóng tên đã phủ đầy trời. Khá nhiều binh sĩ Việt Nam nằm xuống. Nhưng tên bắn thì bay được bao xa? Võ Khánh chấp nhận cho điều này xảy ra à? Sáu tiểu đoàn kỵ binh được lệnh xuất kích. Họ nhanh chóng áp sát, dùng súng TSG02 mà bắn hạ các đội cung thủ vốn phản ứng chậm hơn.

Cung thủ giặc đã bị triệt hạ, Võ Khánh lại giục ba sư đoàn bộ binh của mình tiến lên tiêu diệt cánh quân đoạn hậu. Lối đánh hiện đại được bộ binh phát huy hết sức nhuẩn nhuyễn, t.ừng tiểu đội chia ra chiếm cứ t.ừng phân đất trên chiến trường, chậm rãi tiến lên, dùng TSG02 hạ gục t.ừng tên giặc. Nói là tiến chậm rãi nhưng phải hiểu là tốc độ của họ không hề chậm chút nào. Binh sĩ của ba sư đoàn cúi người khom khom chạy xộc tới. Uy hiếp lớn nhất của họ là những tay súng của đối phương, nhưng tốc độ nạp đạn và bắn của chúng lại chậm hơn nhiều.

Giải pháp duy nhất lúc này của Vũ Minh là cho quân lao lên đánh xáp lá cà. Ừ thì cứ xáp lá cà đi. Binh sĩ cả ba tiểu đoàn cũng không tiến lên nữa, họ xếp thành mấy hàng ngang, đứng đó mà thi nhau nổ súng.

Nghĩ cũng lạ, quân Thanh cứ lao lên, cứ đi được vài bước lại ngã xuống. Ấy thế mà họ cứ lao lên. Trong phút chốc, xác binh sĩ bắt đầu chất chồng lên nhau như một bức tường thịt, ngăn trở tầm bắn của bộ binh Việt Nam.

Bỗng âm… ầm…, những bức tường thịt nổ tung, nát bấy, để lộ ra những người phía sau đang chạy tới. Đại bác Việt Nam lại vang rền. Bộ binh lại được giải phóng tầm mắt, họ lại tiếp tục bắn. Có thể nói, đây là một cuộc tàn sát một chiều thì đúng hơn là một trận chiến sòng phẳng.

Không thể chần chừ được nữa, Vũ Minh cho quân nhanh chóng tháo chạy theo chân của Trung quân. Mà lúc này Võ Khánh cũng không cần phải gấp gáp. Anh cho binh sĩ thu dọn chiến trường và phái sáu tiểu đoàn kỵ binh truy đuổi với tốc độ khá chậm. Anh muốn chọn cho quân Thanh một mảnh đất chôn thân và cũng chờ hai mặt giáp công cùng Quân đoàn một của Đại tướng Phùng Ngọc Viễn.

Mãi khi chạy đến tận vùng giáp giới giữa Bắc Giang và Lạng Sơn, Ngô Hùng Quang thấy quân Việt Nam bị bỏ lại ở xa phía sau thì cho binh sĩ dừng chân thở dốc. Y cho quân ngồi nghỉ tại chỗ và kiểm tra quân số. Trong hai phó tướng, y chỉ còn lại bên mình Vũ Minh. Hai tướng lĩnh cấp cao nhất quân Thanh lúc này gặp nhau và trao đổi sau khi chạy trối chết.

- Nguyên soái! Bọn An Nam quả thật là nguy hiểm. Chúng đã dừng lại nghỉ ngơi cách đây ngoài năm trăm dặm. Có lẽ chúng cũng như ta, cũng mệt mỏi.

- Ông trời ơi! Lẽ nào ông phụ bạc ta? – Ngô Hùng Quang than vãn – Vũ Minh, cho quân nghỉ ngơi nửa canh giờ thôi rồi cấp tốc rút lui. Ta nghĩ bọn chúng chưa chặn vùng Lạng Sơn được đâu.

- Vâng, Phó Nguyên soái. Phải nói bọn chúng quá nguy hiểm, nhất là cái thứ vũ khí bay trên trời kia. Mạt tướng ở Hậu quân nhìn thấy mà hoảng sợ vô cùng.

- Thôi, đừng nói nhiều nữa. Ngươi kcho kiểm tra lại quân số đi, xem thử ta còn được bao nhiêu.

Vũ Minh vâng lời, phân phó cho thuộc hạ kiểm tra quân số. Sau một lúc, y nhận được hồi báo là chỉ còn vừa đúng mười bốn vạn. Phần còn lại có lẽ số thì chết, số thì bị bắt sống rồi. Y nhanh chóng báo lại cho Ngô Hùng Quang.

- Mười bốn vạn… ôi mười bốn vạn – Ngô Hùng Quang cảm thán. – Khi đi là hai mươi lăm vạn, giờ chỉ còn đúng mười bốn vạn. Lẽ nào trời không đứng về Đại Thanh ta nữa sao?

- Phó Nguyên soái xin bớt đau buồn. Bây giờ điều cần làm là chúng ta phải mau chóng quay về. Mạt tướng e là chúng sắp đuổi tới nơi rồi.

- Vũ Minh, chúng ta cho tam quân nghỉ ngơi thêm một khắc thời gian nữa rồi phải đi ngay mới kịp. Chúng ta phải vượt qua Ải Chi Lăng trong hôm nay, chờ lâu e rằng sẽ quá muộn.

- Vâng, Phó Nguyên soái.

Lúc này thời gian đã là mười giờ sáng. Đúng lúc Ngô Hùng Quang cho người nhổ trại cũng chính là lúc y nghe tiếng hô truy đuổi phía xa xa. Quân Thanh lập t.ức vội vã tháo chạy. Cứ thế, một trước một sau, hai đoàn quân cuối cùng cũng đến được Ải Chi Lăng.

Ải Chi Lăng. Đây chính là địa danh biết bao triều đại Trung Quốc phải khiếp sợ. Nhớ ngày trước, Mã Viện đem quân sang xâm chiếm nước Nam phải dựng bia và tạc rùa đá. Danh tướng nhà Minh Liễu Thăng cũng phải bỏ mình nơi đây.

Ải Chi Lăng cấu thành từ một thung lũng hẹp ép giữa hai dãy núi, phía Đông là dãy núi đất Bảo Đài – Thái Họa và phía Tây là núi đá Kai Kinh dựng đứng. Con sông Thương ngoằn ngoèo chảy dọc theo thung lũng, bên con đường đường cái quan lên biên giới, xuôi về kinh đô.

Những ngọn núi thấp rải rác dọc thung lũng và trấn ven đường cái quan như núi Hàm Quỷ, núi Phượng Hoàng, núi Kỳ Lân, núi Mã Yên. Đóng khóa hai đầu của thung lũng, nơi hai vòng cung núi đất phía Đông và núi đá phía Tây khép lại, là lũy Ải Quỷ phía Bắc và núi Ngõ Thề phía Nam, khoanh kín trong lòng một ải quan dài năm kí lô mét, rộng khoảng ba kí lô mét.

Tại Ải Chi Lăng còn có Thành Chi Lăng. Ở gần cửa Nam của thành còn phiến đá khắc 5 chữ Hoàng tráng nhị thập đội.

Phía nam Ải Chi Lăng có hai khối đá lớn, một khối có hình dáng giống như thanh kiếm khổng lồ gọi là Lê Tổ Kiếm và một tượng đá có hình dáng như một người quỳ gối và bị cụt đầu gọi là Liễu Thăng Thạch (tức đá Liễu Thăng, ám chỉ tướng Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu tại ải).

Xã Chi Lăng có Ải Chi Lăng và Quỷ Môn Quan. Quỷ Môn Quan nằm ở phía Nam huyện Bắc Lưu, châu Uất Lâm tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, cách huyện lỵ Bắc Lưu khoảng ba mươi dặm. Tại cửa quan này có hai khối núi đối nhau và ở giữa có độ rộng ba mươi bước, tục gọi Quỷ Môn Quan. Mã Viện đánh Việt Nam qua đấy dựng bia và tạc rùa đá. Đời nhà Tấn (265-420) binh lính Trung Hoa qua đó bị giết nhiều nên có câu:

Quỷ Môn Quan, Quỷ Môn Quan!
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn.


Chỉ cần vượt qua Ải Chi Lăng và Quỷ môn quan, quân Thanh đã có thể yên tâm đặt chân lên đất quê hương. Thế nhưng, sự đời nào có đơn giản như vậy. Ở trên vách núi, những khẩu đại bác của Việt Nam hiện ra. Những họng đại bác đen ngòm chỉa về đoàn quân tháo chạy lúc này trông như những cái miệng của quỷ giữ đang đứng gác Quỷ môn.

Không có một tiếng nói nào xuất phát t.ừ binh sĩ Việt Nam. Thế nhưng Ngô Hùng Quang hiểu, thế là hết rồi. Đối phương đã đến được nơi đây, trận địa cũng đã làm xong thì thử hỏi mình có chống được hay không. Y cho quân dừng lại rồi bảo với Vũ Minh:

- Vũ Minh này. Ta và ngươi coi như là xong rồi. Chúng ta đã quá chậm.

- Phó Nguyên soái. Chúng ta phải làm gì đây? Hay là Mạt tướng cùng binh sĩ yểm trợ cho tướng quân thoát thân?

- Thoát? Ngươi tưởng là thoát được sao? Ngươi có thấy những cái miệng quỷ kia không?

Ngô Hùng Quang chỉ về những họng đại bác đen ngòm chỉ chực nuốt chửng đoàn quân. Y lắc đầu và nói với Vũ Minh:

- Chống cự là vô ích, chỉ tổ nạp mạng thôi. Binh sĩ cũng là người, cũng còn có mẹ già, con thơ. Chi bằng…

- Phó Nguyên soái. Ý tướng quân là đầu hàng à?

- Biết làm sao bây giờ. Thôi, đừng cố chấp nữa. Ngươi hãy đến gặp người của bọn chúng đi.

Đến lúc này, Vũ Minh đành chấp nhận vậy. Y cũng hiểu Ngô hùng Quang nói phải. Vả lại, đúng là binh sĩ vẫn còn đó mẹ già cùng con thơ. Lựa chọn đầu hàng đúng là giải pháp tốt nhất lúc này. Y quay đầu ngựa, chậm rãi đi về hướng đoàn quân truy đuổi vốn đã dừng lại ở phía xa.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 65: Xuất quân Bắc chinh
Chương 65: Xuất quân Bắc chinh

Tin đại thắng năm mươi vạn quân Thanh nhanh chóng lan ra trên toàn cõi Việt Nam. Các tờ báo lớn đăng tải những t.ựa đề rất kêu như “Mười bảy năm, hai lần đại phá quân Thanh” hay “t.ự hào con cháu Lạc Hồng”. Phải nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một triều đại phương Bắc xâm chiếm nước Việt những hai lần và cả hai lần đều là thảm bại. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên nữa, năm xưa, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh dưới triều Càn Long. Lần này, con của vua Quang Trung là Quang Toản lại làm con vua Càn Long là Gia Khánh phải mất mặt.

Phải nói, tin t.ức đại thắng này đã làm nức lòng hàng triệu con tim người dân đất Việt. Đi đến đâu, người ta đều nghe bàn luận sôi nổi. Nào là Việt Nam nay đã khác, nào là Việt Nam đã thực sự trở thành một quốc gia, nào là Việt Nam đã có thể đứng trên đôi chân của mình. Lại có một đề tài khác, mang hơi hướm của lòng tin tuyệt đối vào bản lĩnh và sức mạnh quân sự của nước nhà. Có người nói, Việt Nam đã có đủ sức mạnh để làm khiếp sợ bất cứ kẻ nào muốn xâm lược. Có người còn bạo dạn hơn, họ dám cược với nhau, liệu Việt Nam có đem quân đi đánh nhà Thanh, để rửa hận cho bao nhiêu thế hệ hay không. Và nếu có thì đó là khi nào.

Và có vẻ như triều đình muốn đáp ứng mọi ước muốn của người dân khi mà tờ Dân Việt, tờ báo và cũng là cơ quan phát ngôn chính của triều đình đăng một bài báo. Không, phải nói chính xác là hai bài mới đúng. Một bài có t.ựa “Chiến thư gửi Đại Thanh triều”, bài kia có t.ựa “Nước Anh Cát Lợi tuyên chiến Đại Thanh”.

Báo ra ngày 3 tháng 12 năm 1806. Bài đầu tiên có đăng tải đoạn trích chiếu thư Toản gửi toàn dân. Chiếu viết:

“Đất nước Việt Nam vốn dành cho người dân Việt. Dân tộc ta cũng là dân tộc yêu hòa bình. Mấy mươi năm qua, đất nước chìm trong nội chiến. Biết bao gia đình phải ly tán, biết bao người vợ phải xa chồng, người con phải xa cha. Đất nước trì trệ, dân chúng cơ hàn, đói khổ. Nay dân chúng mới được nghỉ ngơi và vui sống được mấy năm. Thế mà, người phương Bắc lại không có giờ phút nào lại không dòm ngó non sông ta. Nhớ ngày trước, Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị đem ba mươi vạn quân sang xâm lấn và bị Tiên đế đánh bại. Đời cha đã vậy, nay lại đến lượt Gia Khánh nhân lúc Trẫm mang trọng bệnh mà thừa cơ giày xéo non sông ta. Điều này thực sự là quá thể. Tuy chúng ta lại một lần nữa đánh đuổi chúng đi nhưng Trẫm không dám đảm bảo rằng đời con cháu chúng ta liệu có còn bị chúng lăm le chiếm đất, giết người nữa hay không. Bởi thế nên, Trẫm quyết định, ngày 5 tháng 12 sắp tới sẽ cất quân thảo phạt chúng. Trẫm làm thế này không bởi vì hiếu chiến, cũng không phải vì ham muốn danh vọng, quyền lực. Trẫm chỉ muốn cho chúng biết, nếu còn có ý đồ với Việt Nam, người dân Việt dù nhỏ bé vẫn sẽ cho chúng ôm hận nghìn thu”.

Bài báo còn cho hay, Toản sẽ chỉ phái đi hai quân đoàn với quân số không quá chín vạn người. Chính điều này cũng gây ra một trận tranh luận gay gắt trong dân. Có người nói chín vạn là con số vô cùng nhỏ so với hàng trăm vạn đại quân của nhà Thanh. Cũng có người nói, với ưu thế về hỏa lực, chín vạn con người đó thừa khả năng khiến người phương Bắc ôm hận. Lại có người còn cho rằng, con số chín vạn ấy chỉ là bề nổi, có lẽ số người tham chiến còn lớn hơn nhiều. Chung quy, tranh luận thì có, ấy mà lạ kỳ là không có một người dân nào phản đối. Dẫu biết có chiến tranh t.ức là sẽ có người nằm xuống nhưng người người, nhà nhà đều ủng hộ. Đã bao đời nay, ngoại trừ danh tướng Lý Thường Kiệt năm xưa, chưa có một triều đại hay vị vua nào lại dám tuyên chiến với người Trung Quốc. Có người còn t.ự góp tiền, góp của cho quân đội hay xung phong vào quân ngũ, những mong được một lần giết giặc.

Bài báo thứ hai lại là bài phỏng vấn Ngài Đại sứ đặc mệnh toàn quyền, tướng quân Mã Kim Đa. Ông nói, Việt Nam có mối quan hệ chiến lược với Anh Cát Lợi. Nếu như Việt Nam gặp phải bất cứ vấn đề gì thì quyền lợi của nước ông cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chưa hết, mối bang giao giữa hai nước không chỉ đơn giản là bang giao. Kể t.ừ ngày Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn cưới công chúa nước Anh là Sophia thì nhân dân hai nước đã là anh em. Thế mà Đại Thanh lại dám đem quân xâm lược Việt Nam. Làm như vậy cũng chẳng khác nào Hoàng đế Gia Khánh tuyên chiến với Anh Cát Lợi. Ông còn nói, kể t.ừ năm ngày trước, hải quân nước Anh Cát Lợi lên đường trừng phạt người phương Bắc.

Như vậy, không còn người dân nào lo lắng đoàn quân Việt Nam sẽ chiến bại nữa. Nhà Thanh giờ đây sẽ phải hứng chịu cơn thịnh nộ của nhà vua trẻ Quang Toản cùng nước Anh Cát Lợi hùng mạnh t.ừ hai hướng. Không khéo, họ lại còn phải chịu tổn thất không nhỏ khi mà các thế lực “Phản Thanh Phục Minh” như Thiên Địa hội trong nước đứng lên lật đổ. Đất nước Trung Hoa giờ đây nguy trong sớm tối.

Cùng ngày hai bài báo đó được phát hành, Gia Khánh cũng mở một cuộc họp quân cơ. Trái với không khí cuồng nhiệt và đầy hứng khởi ở Việt Nam, triều thần Đại Thanh mấy ngày nay chìm sâu trong sầu muộn. Bá quan không có ngày nào lại không phải chịu cơn giận của Gia Khánh. Cũng phải thôi, suốt năm ngày nay, họ phải hứng chịu nhiều đợt tấn công của Hải quân Hoàng Gia Anh Cát Lợi. Lần lượt đảo Hải Nam rồi Đài Loan rơi vào tay Anh Cát Lợi. Hiện tại, Hồng Kông cũng đang bị uy hiếp.

Cũng như mọi ngày, Gia Khánh đập bàn, giận dữ hỏi:

- Các Khanh làm việc kiểu gì mà cho đến bây giờ vẫn không hiểu tại sao người Anh Cát Lợi vô lý gây sự thế hả? Quân Anh Cát Lợi giờ này đang đe dọa Hồng Kông. Họ có chưa đến một trăm chiến thuyền trong khi ta có đến hàng nghìn chiếc vẫn không chặn được bước tiến của họ, lại tổn thất hơn năm trăm chiếc là sao?

Trước câu hỏi của Hoàng đế, mấy vị Quân cơ đại thần lạnh ngắt cả chân tay, không ai dám đứng ra trả lời. Lời của Gia Khánh đúng quá còn gì. Sở hữu cả mấy nghìn chiến thuyền vẫn không thể chống lại đoàn thuyền chưa đến một trăm chiếc của người ta. Ấy là còn nói hơi quá, Gia Khánh đã bị chính bề tôi của mình che mắt khi mà thực tế người Anh Cát Lợi chỉ có bốn mươi chiến thuyền và hai mươi chiếc thuyền chở lính đổ bộ. Vậy mà họ lại dám tâu lên đối phương có những một trăm chiếc.

Một lúc sau, Chu Khuê vốn là Thừa tướng trong triều bước ra, nói:

- Khởi bẩm Hoàng thượng. Thần đã tra ra nguyên do họ đem binh đánh ta.

- Nói! – Gia Khánh gằn giọng nói ra chỉ một từ.

- Khởi bẩm. Đám man di An Nam và Anh Cát Lợi vốn có mối quan hệ bang giao khắng khít. Nay chúng ta thảo phạt An Nam chính là đang đụng chạm đến lợi ích Anh Cát Lợi. Họ nói rằng họ có nghĩa vụ bảo vệ đồng minh nên đánh ta. Đây là kế vây Nguỵ cứu Triệu, buộc chúng ta rút quân ở An Nam về.

- Ý Khanh nói Trẫm quyết định thảo phạt An Nam là sai hay sao?

- Thần không dám. Thảo phạt An Nam là việc phải làm. Chỉ là chúng ta tính sót mối quan hệ của chúng với người Anh Cát Lợi.

Nghe vậy, Gia Khánh ra chiều suy nghĩ. Lát sau ông ta hỏi Chu Khuê:

- Vậy ý Khanh là trước chúng ta rút quân ở An Nam, sau lại hoà đàn với người Anh Cát Lợi à?

- Khởi bẩm. Không thể. Chúng ta không rút binh về. Có câu “không có bằng hữu mãi mãi, chỉ có lợi ích là vĩnh cửu”. Bang giao giữa họ bởi vì lý do nào khác ngoài lợi ích. Trước, chúng ta nên phái ra một người thủ vững biên giới trên biển. Sau, ta lại phái một người có tài hùng biện đến nói chuyện với người Anh Cát Lợi. Chúng ta sẽ cho họ biết Đại Thanh vốn là nước lớn, hợp tác với ta đương nhiên có nhiều lợi ích hơn là đám An Nam kia. Thần tin là họ biết cân nhắc nặng nhẹ mà quay đầu mũi giáo, cùng ta tấn công An Nam.

- Thần đồng ý với Thừa tướng – Binh bộ Thượng thư Khánh Quế nói. – Chúng ta không thể tha đám An Nam kia được.

Ngẫm nghĩ hồi lâu, Gia Khánh lại hỏi:

- Vậy theo các khanh, Trẫm sẽ phái ai đi làm hai việc này?

- Thần đề cử Thuỷ sư Đô đốc Quảng Đông Hoắc Nhĩ Thái đảm nhiệm việc phòng thủ. Còn thuyết khách, thứ lỗi thần ngu muội, chưa nghĩ ra người thích hợp – Khánh Quế đáp.

- Thần đề cử Thập nhất Bối lặc Hạo Mân làm thuyết khách, trợ tá là Đại học sĩ Lưu Dong – Chu Khuê nói.

- Hoắc Nhĩ Thái thì Trẫm tin tưởng, còn Hạo Mân, Trẫm e nó không thể làm thuyết khách được.

- Hoàng thượng chớ lo – Chu Khuê lại nói. – Bối Lặc là người văn võ song toàn, lại có thầy dạy là Lưu Đại học sĩ đi cùng thì tỷ lệ thành công là rất lớn.

Vẻ mặt Gia Khánh lúc này cũng dãn ra đôi chút. Về mặt Thập nhất Bối lặc Hạo Mân con mình, ông ta quả là không thật yên tâm khi y vẫn còn quá trẻ. Song, có Lưu Đại học sĩ đi cùng thì mọi việc có thể sẽ thuận lợi hơn. Cuối cùng ông ta cũng đồng ý với hai vị đại thần.

Vậy là ngay hôm sau, Thuỷ sư Đô đốc Quảng Đông Hoắc Nhĩ Thái được phong làm Thuỷ sư Đại Đô đốc, chỉ huy một nghìn hai trăm chiến thuyền, rải đều vùng biển Quảng Đông để phòng thủ, phần Hồng Kông thì bỏ mặc cho đối phương. Thập nhất Bối lặc Hạo Mân lại được phong làm An Định Vương, cùng Đại học sĩ Lưu Dong đảm nhận vai trò hoà đàm cùng người Anh Cát Lợi.

Quả thật, suy tính của quân thần Đại Thanh là đúng. Nhưng đó là nếu việc hôm nay rơi vào mấy mươi năm trước, thời Hoàng đế Càn Long trị vì thì còn có thể áp dụng. Thời đó, Đại Thanh quả là một nước lớn mạnh, hùng cường. Song, ngày nay, trải bao sóng gió trong lịch sử, thời đại huy hoàng đó đã dần đi vào lụn bại, kinh tế trì trệ, quân lực suy yếu. Chưa hết, Việt Nam ngày nay đã phát triển hết sức bền vững, quân đội tuy nhỏ nhưng lại có sức mạnh cực lớn. Nếu xét đến việc người Anh Cát Lợi chọn bên nào để hợp tác thì không cần suy nghĩ cũng có thể đoán được. Vậy thì có lẽ chuyến đi này của Hạo Mân cũng là vô ích.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 66: Rúng động Thanh triều
Chương 66: Rúng động Thanh triều​

Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, Hải quân Hoàng gia Anh Cát Lợi lại tiếp tục phát động một cuộc tấn công mới vào xứ Cảng Thơm. Một điều làm đạo quân viễn chinh thấy khá bất ngờ là họ hầu như không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Chỉ huy hải đội là viên đại tá Thomas Simon. Đó là một người đàn ông cao to với làn da đen sạm, đặc trưng của những người dành phần lớn thời gian của mình lênh đênh trên biển cả.

Càng ngạc nhiên hơn khi mà Simon và mấy viên sĩ quan lại được chào đón trên đảo này. Những người dân hiền lành nhìn họ với ánh mắt đầy thiện cảm. Hỏi ra mới biết, thì ra mặc dù Hồng Kông xưa nay vẫn thuộc Đại Thanh nhưng mấy khi được triều đình quan tâm tới. Đa số dân cư hành nghề đánh cá. Đất đai ở đây thuộc dạng đồi núi, khó có thể trồng được các loài cây lương thực. Ấy vậy mà cũng chẳng thấy triều đình chủ động trong việc tiếp tế bao giờ. Để lo cho cái ăn của mình, người dân chỉ còn hai cách. Một là họ cập cảng Quảng Châu để bán con cá, con tôm mình mới đánh bắt được và mua về mớ rau, nắm gạo. Thứ hai, khác với đại lục, các thương nhân thường xuyên ghé lại buôn bán, đó cũng chính là kế sinh nhai của người dân.

Cũng bởi như thế mà trong lòng mỗi người dân nơi đây, họ không muốn làm một phần của Đại Thanh nữa. Nhân người Anh Cát Lợi tiến chiếm, họ lại mở cửa chào đón. Sự kháng cự mấy ngày trước chẳng qua là của thủy quân Quảng Đông. Có thể nói, việc người Anh Cát Lợi chiếm Hồng Kông cũng chính là cứu cánh cho những người dân hiền lành nơi đây.

Đặt chân lên cảng, dạo bước trên những con đường, Simon đã định hình được tương lai của hòn đảo mang tên Hồng Kông này nếu nó nằm dưới sự quản lý của Vương quốc Anh Cát Lợi. Ông nhanh chóng tìm đến dinh thự vốn dùng làm trung tâm quản lý của cả vùng. Đó là một quần thể dinh thự mang đậm nét kiến trúc “t.ứ hợp viện” đặc trưng của Trung Quốc.

Bước chân vào đây, Simon được tiếp đón bởi ba người đàn ông, hai người còn khá trẻ, người kia thì lớn tuổi hơn và lưng hơi bị gù. Người thanh niên trẻ mở lời:

- Xin chào, có lẽ ông là người chỉ huy cao nhất của hải đội nước Anh Cát Lợi. Chúng tôi chờ ông ở đây đã lâu rồi.

- Các ngài là… – Simon hỏi.

- Đây là An Định Vương Hạo Mân, còn đây là Lưu Dung, Lưu Đại học sĩ. Tôi là Đổng Các, người sẽ phiên dịch cho hai vị đại nhân.

- Xin chào, tôi là Đại tá Thomas Simon, chỉ huy phó Hải đội Hoàng gia số mười bảy, dưới quyền của Đô Đốc Mark Downing.

Thông qua người phiên dịch Đổng Các, Hạo Mân hỏi Simon:

- Vậy ông cho ta hỏi, Mã Đại nhân hiện thời có mặt ở đây hay không? Và ông có quyền định đoạt mọi sự thay ngài ấy hay không?

- Đô đốc hiện đang giữ vai trò Tổng Lãnh sự Hoàng gia tại Việt Nam. Ông ấy đang ở Phú Xuân. Tôi có thể định đoạt mọi sự. Tuy nhiên…

Simon trả lời, bỏ lại một câu nói lấp lửng làm cho mấy người đối diện cảm thấy ngạc nhiên. Hạo mân hỏi:


- Tuy nhiên thế nào? Xin ngài hãy nói rõ.

- Ý tôi là các ngài chờ tôi ở đây là vì mục đích gì?

- Giao dịch – Hạo Mân nói. – Ta muốn cùng ông làm một giao dịch.

- Giao dịch? Giữa chúng ta có gì mà giao dịch. Và cũng xin các ngài cũng đừng quên, đất này nay đã thuộc về quyền quản lý của Hoàng gia Anh. Các ngài nên hiểu và chú ý thái độ của mình.

Đổng Các bỗng nhiên thấy khó xử khi phiên dịch lại câu này. Cuối cùng, anh ta nói lại với Hạo Mân và Lưu Dong:

- Ngài ấy nói Vương gia muốn giao dịch gì với người Anh Cát Lợi.

Rõ ràng là Đổng Các sợ rằng Hạo Mân sẽ nổi giận khi dịch lại nguyên văn. Bởi vậy, không có gì khó hiểu khi mà Hạo Mân vẫn giữ thái độ cao cao tại thượng cố hữu:

- Ta muốn các ông t.ừ bỏ An Nam và hợp tác với Đại Thanh triều.

Chưa đợi Đổng Các phiên dịch, Simon gằn giọng với vẻ giận dữ:

- Tôi nhắc lại, các ngài phải chú ý thái độ của mình. Đây không phải là t.ư thế của kẻ bại trận.

Thấy vẻ mặt cùng giọng nói hậm hực của người sĩ quan cao cấp Anh Cát Lợi, Hạo Mân tỏ vẻ không hiểu và khó chịu. Trong khi đó, Lưu Dong cảm thấy có gì đó không ổn, ông hỏi Đổng Các:

- Phải chăng ngươi phiên dịch có gì sai mà ngài ấy giận dữ thế này? Còn không mau nói lại cho đúng.

Đổng Các run rẩy rồi hướng Hạo Mân mà quỳ sụp xuống. Y bất đắc dĩ nói mình không dám dịch nguyên văn câu nói trước đó vì sợ hai người, nhất là Hạo Mân nổi giận. Đoạn, y ấp úng dịch lại nguyên văn câu nói trước đó sau khi Lưu Dong bảo.

Lúc này Hạo Mân muốn phát tác. Song, Lưu Dong đã kịp thời cản lại. Ông nói:

- Vương gia, xin bớt nóng giận mà hư đại sự. Để thần nói với y vài câu.

Nói rồi ông quay sang Simon:

- Xin ngài thứ lỗi. Chúng tôi ở đây là có thành ý cùng quý quốc bàn chuyện hợp tác.

- Nếu muốn nói hợp tác thì trước tiên, các ngài hãy bỏ thái độ đó đi. Chưa hết, hãy bước xuống, các ngài không có quyền ngồi trên cao mà nói chuyện với tôi. Nhắc lại, nơi đây không còn là đất của các ngài nữa. Nếu muốn, tôi có thể cho người bắt lấy các ngài mà không cần hỏi nguyên do.

Nghe lời phiên dịch, giữa ba người nhà Thanh lại nói chuyện xì xào. Cuối cùng, Hạo Mân đành nhượng bộ mà hạ thấp t.ư thế, bước xuống đứng ngang hàng với Simon. Lưu Dong lại hỏi:

- Chúng tôi như thế này đã được hay chưa? Chúng ta đã có thể bàn bạc với nhau hay chưa, Sài Đại nhân

Lưu Dong nói Thomas Simon là Sài Đại nhân do biết Simon là họ của ông ta và phát âm theo tiếng Hoa là Sài, phiên âm là Xĩmẽn. Lúc này, Simon đã dịu xuống đôi phần. Ông ta cũng đồng ý nghe thử những người trước mặt muốn nói gì. Đến khi biết được mục đích của họ, ông ta cười lớn:

- Ha… ha… Các ngài nói dễ nghe nhỉ. Bảo tôi đình chiến. Nên nhớ, tôi là một quân nhân, mệnh lệnh của cấp trên trực tiếp là tối thượng. Vả lại, tôi cũng không có đủ thảm quyền để nói chuyện t.ừ bỏ bang giao với Việt Nam mà hợp tác với các ngài. Hơn nữa…

- Hơn nữa gì? – Hạo Mân có vẻ muốn phát tác.

- Hơn nữa, Trung Quốc các ông giờ chỉ là con rồng giấy còn Việt Nam mới thực là một con rồng. Nói thật với các ông. Nếu như Việt Nam muốn xâm chiếm Trung Hoa, thật không cần người Anh chúng tôi nhúng tay vào. Trong vòng chưa tới ba tháng, họ thừa khả năng càn quét đất nước các ông. Ngay cả người Anh chúng tôi cũng không dám chắc khả năng chiến thắng nếu đối đầu với họ.

- Nếu nói như đại nhân – Lưu Dong cướp lời của Hạo Mân và nói, – An Nam cũng là mối uy hiếp với quý quốc. Có câu “kẻ thù của kẻ thù chính là bạn”. Thế tại sao quý quốc lại không chấp nhận t.ừ bỏ nước này mà kết đồng minh với chúng tôi?

- Ngài nói thế là sai rồi. Việt Nam tuy mạnh nhưng chưa phải là mối uy hiếp với chúng tôi. Nếu xảy ra chiến tranh mà nói, chúng tôi bất quá chỉ là ngang ngửa với nhau. Tuy nhiên, điều này là không thể vì chúng tôi không hề có mâu thuẫn về lợi ích và chiến tranh chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho cả hai phía. Chưa hết, các ngài có thể cho chúng tôi được những gì? Trong khi tất cả những gì các ngài có, chúng tôi có. Tất cả những gì chúng tôi cần, các ngài không có nhưng Việt Nam lại có. Họ còn có những gì chúng tôi cần trong tương lai nữa.

- Ngài có thể cho chúng tôi ví dụ không? – Lưu Dong lại hỏi.

- Các ngài có thứ này không? Chắc là có nhưng lại kém xa lắm.

Simon lấy ra một khẩu TSG02 và đưa đến trước mặt ba người. Họ lúc đầu bỉu môi, tỏ vẻ chúng tôi cũng có. Thế nhưng, khi cầm lấy khẩu súng, họ biết là mình đã sai lầm. Loại súng này nhà Thanh không thể nào làm được và cũng không thể nào chống lại được.

Mồ hôi Lưu Dong chợt vả ra như tắm. Ông hiểu, đừng nói là ba tháng, với loại vũ khí này cùng với tốc độ hành quân vốn đã làm nên thương hiệu của binh sĩ Việt Nam, chỉ cần chưa đến một tháng, đối phương đã có thể đánh chiếm Bắc Kinh, buộc Hoàng đế phải đầu hàng. Các địa phương khác tất cũng sụp đổ theo.

Trái ngược với Lưu Dong, Hạo Mân chỉ biết đây là một khẩu súng như bao khẩu súng khác. Nó chẳng giúp được gì nhiều. Chỉ là nó nhìn có vẻ đẹp hơn. Nhìn sang người thầy của mình, y cảm thấy ngạc nhiên khi mà ông ta đổ mồ hôi, gương mặt có vẻ bất an. Y hỏi:

- Lưu Đại nhân, thầy, thầy làm gì mà có vẻ thất thần thế? Đây chỉ là một khẩu súng tầm thường thôi mà.

- Vương gia. Ngài không thấy đây là một cây súng đặc biệt khác thường hay sao?

- Có gì mà đặc biệt? Đại nhân nói ta nghe thử.

- Vương gia không thấy nó không có bộ phận đánh lửa và không cần nhồi đạn hay sao? Những viên đạn nằm ở đây, lại có năm viên. t.ức là khi ta bắn hai viên đạn, họ đã bắn được năm viên. Như vậy thì không cần phải hỏi cũng biết ưu thế trên chiến trường của nó.

Hạo Mân cuối cùng cũng không phải là người thiển cận. Y đã hiểu ra vấn đề và suy đoán:

- Như vậy, bọn An Nam có thể chỉ bằng quân số một phần năm chúng ta cũng có thể tiêu diệt sạch ta. Nói vậy… nói vậy… nói vậy…

Y nói liền ba chữ “nói vậy” xong thì im bặt. Lưu Dong gật đầu và nói:

- Đúng vậy, thần e là năm mươi vạn quân của ta đi Nam chinh lành ít dữ nhiều. Cũng có lẽ chúng ta đã đại bại và chúng đang hành quân sang đánh nước ta.

- Có lẽ vậy. Thôi chết… thế thì chúng ta phải t.ức tốc trở về hồi báo Phụ hoàng. Nếu không thì mọi việc sẽ vô cùng xấu.

Đoạn, lúc này y không còn tỏ ra ngạo mạn nữa. Y quay sang nói với Simon:

- Sài Đại nhân. Chúng ta đã hiểu ra nhiều vấn đề. Ta có việc, phải về Hoàng cung gấp. Xin thứ lỗi.

- Sao các ngài lại vội thế? Các ngài không hiểu tại sao tôi lại tỏ ra hào phóng khi cho các ngài xem khẩu súng này hay sao?

- Ý ngài là…

- Đúng vậy. Mời ba ngài vui lòng ở lại nơi đây. Sau khi xong việc, chúng tôi sẽ để cho các ngài đi đâu tùy thích.

Theo quan điểm Nho giáo, trong chiến tranh, hành động bức hại hai bắt giam sứ giả là điều đáng xấu hổ. Thế nhưng, đây lại là chiến tranh hiện đại, người Anh Cát Lợi cũng là những người thực dụng. Họ cần những cái cụ thể chứ không phải là lời hứa hão huyền. Và hơn hết, họ là một dân tộc cực kỳ trọng chữ tín.
Và theo sau lời của Simon, ba người nhà Thanh không còn có thể nói được gì hơn. Họ bị mấy người lính Anh Cát Lợi dẫn đi và giam lỏng ở ba căn phòng khá xa nhau ngay trong chính tòa dinh thự này. Ít ra, người Anh Cát Lợi không có xem họ như những tù phạm. Họ được xem là tù binh chiến tranh và đối xử không đến nỗi tệ.

……………

Trở lại với biên giới Việt – Trung, ngày 5 tháng 12, hai quân đoàn Việt Nam đồng loạt tiến quân qua đất nhà Thanh. Nếu như ngày trước hai lộ quân Thanh xuất phát t.ừ đâu thì nay chúng cũng chính là hai mục tiêu đầu tiên. Có khác với lần bảo vệ đất nước vừa rồi chính là sự tham chiến của Quân đoàn hai và Quân đoàn ba. Lý do để chọn hai quân đoàn này cũng không bởi vì Toản muốn cả bốn quân đoàn dưới tay mình đều có quân công. Điều chính yếu đó là trong thời gian vừa qua, khi hai đơn vị bạn chiến đấu bảo vệ non sông, hai quân đoàn này đã cử người đi trinh sát để nắm được địa thế cũng như bố phòng của địch.

Với ưu thế về sức mạnh của vũ khí, Quân đoàn hai nhanh chóng chiếm được tỉnh Hồng Hà, thuộc hành tỉnh Vân Nam ngay trong ngày đầu xuất quân. Sau đó, lấy tốc độ nhanh nhất, trong vòng bảy ngày, họ đã chiếm được tỉnh Khúc Tĩnh, hành tỉnh Vân Nam, Bách Sách, Hà Trì, Lai Tân, Liễu Châu thuộc hành tỉnh Quảng Tây.

Cũng trong vòng năm ngày, Quân đoàn ba chia làm hai cánh quân. Cánh thứ nhất với một phần ba quân số, được hạm đội một yểm trợ, nhanh chóng chiếm Phòng Thành, Khâm Châu, Bắc Hải, Ngọc Lâm, Ngô Châu. Cánh thứ hai lại đánh lên hướng bắc, chiếm Sùng Tả, Nam Ninh, Quý Cảng rồi hội quân với cánh thứ nhất tại Ngô Châu. Hai ngày sau, họ chiếm được Hạ Châu và Quế Lâm.

Như vậy là trong vòng một tuần lễ, hai quân đoàn đã hoàn toàn chiếm được hành tỉnh Quảng Tây. Sở dĩ Việt Nam phải mất một tuần lễ để chiếm Quảng Tây vì đây là lệnh của Toản. Lẽ ra Việt Nam có thể chỉ một đường đánh đến tận Bắc Kinh, như vậy thì quả đúng như Lưu Dong đã đoán, chỉ cần chưa đến một tháng là đã đến được dưới chân thành Bắc Kinh. Anh ra lệnh cho hai quân đoàn như vậy là để đường đường chính chính nắm Quảng Tây và Quảng Đông trong tay sau này, không phải là chiếm được nhờ vào việc đàm phán sau chiến tranh.

Lại thêm bảy ngày tiếp theo, hai quân đoàn này hội họp với đoàn quân Anh Cát Lợi và chiếm được toàn bộ hành tỉnh Quảng Đông. Vậy là chỉ trong vòng mười bốn ngày, “đất cũ” của Việt Nam đã được thu hồi. Ngay hôm sau, hai đạo quân, một Việt, một Anh Cát Lợi lại tách ra. Theo đó, hai quân đoàn của Việt Nam theo đường bộ, một đường tiến thẳng về Bắc Kinh. Phần người Anh Cát Lợi, họ men theo đường biển mà đánh thốc lên.

Vậy là chỉ trong hai tuần lễ đầu của tháng mười hai, nhằm vào cuối tháng mười âm lịch, nhà Thanh đã mất hoàn toàn Lưỡng Quảng, vùng đất được xem là trù phú bậc nhất của mình. Không, phải nói là bị thu hồi mới đúng. Bởi lẽ, t.ừ triều đại nhà Lý kéo dài về rất xa trước đó, vùng đất này chính là của người Việt. Sự tình này đã tạo nên một trận rúng động khủng khiếp cho vương triều Gia Khánh. Nó cũng châm ngòi cho các cuộc nổi dậy của Thiên Địa hội trên toàn cõi Trung Quốc.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 67: Dưới chân t.ử Cấm Thành
Chương 67: Dưới chân t.ử Cấm Thành

Quay lại với chuyến viễn chinh của người Anh Cát Lợi. Có lẽ rất nhiều người t.ự hỏi vì sao họ lại không đánh chiếm Hồng Kông trước rồi mới đến Đài Loan. Họ đang toan tính gì? Một “lỗi” trong t.ư duy chiến lược sao? Nên nhớ rằng khoảng cách giữa hai hòn đảo này không hề gần, lại nữa, Hồng Kông nhỏ hơn Đài Loan nhiều lắm. Người thường nghĩ như vậy, Binh bộ Thượng thư Khánh Quế cũng không khác gì. Bởi vậy, vào thời điểm Thomas Simon tấn công Đài Loan, hòn đảo này gần như vô chủ. Người Anh Cát Lợi đặt chân lên hòn đảo mà hầu như không tốn một hòn tên mũi đạn nào trong khi Hồng Kông lại chật như nêm cối với cả nghìn chiến thuyền.

Simon đã đúng. Học trò của Chuẩn Đô đốc Nelson ngày xưa có khác. Cũng như Allan Smith, người Đại úy đi cùng Bàn t.ừ Anh Quốc về Việt Nam hiện đang giữ vai trò Tham Tán Lãnh sự quán bên cạnh Chuẩn Đô đốc Mark Downing hiện tại, ông trưởng thành với những trận đánh lớn bên cạnh người tướng hải quân vĩ đại Nelson trước khi về làm chỉ huy phó cho Downing. Dùng nhãn quan chiến lược của mình, ông nhận thấy việc nắm giữ Đài Loan một cách nhanh nhất sẽ chiếm một vai trò cực kỳ quan trọng. t.ừ đây, ông có thể nhìn thấy mọi diễn biến trên vùng biển phía Đông Trung Hoa đại lục.

Người nhà Thanh lại một lần nữa sai lầm khi rút quân khỏi Hồng Kông, mở đường cho cuộc đàm phán với hải đội kinh khủng này. Để rồi t.ừ đó, khi liên quân Việt – Anh hội ngộ ở Quảng Đông, toàn bộ vùng đất trù phú Lưỡng Quảng không còn nằm trong tay họ nữa. Cũng kể t.ừ đây, trong vòng một tháng, lần lượt các hành tỉnh Phúc Kiến, Triết Giang, Giang Tô, Sơn Đông, Thiên Tân rơi vào tay người Anh Cát Lợi.

Lại nói về Việt Nam, Quân đoàn hai và Quân đoàn ba sau khi hội họp với người Anh Cát Lợi tại Quảng Đông lại tách ra làm hai. Quân đoàn hai theo hướng bắc, trong hai mươi lăm ngày đã chiếm được Hồ Nam, Hồ Bắc và Tây Hà Nam. Quân đoàn ba lại theo hướng đông bắc, đi song song với người Anh Cát Lợi. Cũng như Quân đoàn hai, trong vòng hai mươi lăm ngày, họ đã làm chủ Giang Tây, An Huy và Đông Hà Nam. Một chiến thuật cực kỳ thông minh của họ được triển khai, phương pháp cuốn chiếu. Khi hai quân đang đụng độ nhau trên chiến trường, binh sĩ Việt Nam lại dùng tên lửa của mình, một loại tên lửa được cải tiến bắn vào hậu phương quân địch, nơi mà sắp tời sẽ là chiến trường kế tiếp. Nhờ vậy, áp lực đè trên bộ binh và kỵ binh Việt Nam được giảm đi rất nhiều.

Hai quân đoàn lớn một lần nữa lại gặp mặt nhau. Một lần nữa, họ dùng thế sét đánh mà chiếm lấy Hà Bắc. Bắc Kinh bị cô lập. Nói thế nhưng cũng phải mất non một tuần lễ họ mới làm được điều này. Tám vạn quân của cả hai quân đoàn phải tốn rất nhiều công sức khi đối chiến cùng bảy mươi vạn quân Thanh. Một sự chênh lệch quá lớn về quân số. Nơi đây tập trung phần lớn binh lực còn lại của Đại Thanh. Họ nghĩ rằng với quân số nhiều gấp gần mười lần có thể áp đảo hoàn toàn những người lính đến t.ừ phương Nam. Song, một lần nữa, họ lại rớt t.ừ thiên đường xuống mặt đất khi mà đến ba mươi vạn quân bị tiêu diệt.

Mấu chốt của lần thất bại này đến t.ừ những quả tên lửa mới của Việt Nam. Kích thước của chúng lần này lớn hơn nhiều và sức công phá thì vô cùng khủng khiếp. Những quả tên lửa mới cũng với hình trụ, đường kính hai mươi lăm xen ti mét, dài một mét. Nhược điểm duy nhất của nó là quá nặng. Tuy vậy, những người kỹ sư chế tạo ra nó lại khắc phục bằng cách thay đổi chất liệu, không làm bằng ống tre hay gỗ nữa. Họ dùng kim loại, một loại hợp kim làm t.ừ nhôm và kẽm. Dàn phóng mới cũng chỉ có thể mang theo hai quả khi bắn. Tầm xa và lực sát thương thì không cần phải bàn cãi, phải nói là vô cùng khủng khiếp. Tuy vậy, người Việt cũng phải mất đi gần một nửa quân số mới dành được chiến thắng.

Trong thời gian này, Gia Khánh cũng đâu có t.ừ bỏ. Ông ta dùng kế “vây Ngụy cứu Triệu”, đem quân t.ừ Vân Nam đánh sang các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn những mong Việt Nam phải dừng đà tiến công. Ấy thế nhưng Quân đoàn một đóng chốt ở đây để mà làm gì. Tất cả đều nằm trong tính toán của Toản và Bộ Quốc phòng. Đó cũng chính là lý do tại sao họ lại phái Quân đoàn hai và ba đi viễn chinh. Quân đoàn một vốn là người bản địa, nhiều năm trấn thủ ở đây và cực kỳ am hiểu địa hình. Bao nhiêu lần quân Thanh công kích là bấy nhiêu lần họ phải nếm trái đắng.

Chưa hết, Toản lại phái thêm hai quân đoàn mới toanh, được đặt tên là Quân đoàn năm và sáu với phần lớn là quân dự bị tiến đến trấn thủ hai hành tỉnh mới thu được là Quảng Đông và Quảng Tây, đồng thời cũng để tiếp tế cho hai quân đoàn lớn phía trước. Chẳng thế mà Đại Thanh gần như vô vọng khi có ý định tái chiếm hai hành tỉnh này và bịt đường lui của người Việt hòng bao vây, tiêu diệt.

Ấy thế mà vận rủi dường như chưa buông tha triều thần Gia Khánh. Hồng Hoa hội với sự hậu thuẫn về tiền bạc và vũ khí của Việt Nam cũng dấy binh làm phản. Họ nhanh chóng chiếm được những vùng đất trọng yếu của nhà Thanh sau hơn một tháng rưỡi. Vùng đất mà Gia Khánh còn nắm trong tay rốt cuộc chỉ còn Liêu Ninh, Nội Mông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Trùng Khánh, Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương và một nửa t.ứ Xuyên. Viễn cảnh người Mãn Châu t.ức cái gốc của nhà Đại Thanh bị đuổi khỏi Trung Hoa Đại lục không còn xa nữa.

Đến tận ngày 20 tháng 1 năm 1806, liên quân Việt – Anh đã hoàn toàn cô lập Bắc Kinh. Gia Khánh và triều thần không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng. Một hội nghị được tổ chức ở Di Hòa Viên, phía tây t.ử Cấm Thành. Đây là cuộc họp ba bên với Quang Bàn đại diện cho Việt Nam, Thái t.ử George Frederick Augustus đại diện cho Vương Quốc Anh Cát Lợi và Gia Khánh đương nhiên đại diện cho chủ nhà.

Bước vào cuộc họp, Quang Bàn nói:

- Gia Khánh Bệ hạ, ngài phải biết, không phải vô cớ mà người Việt chúng tôi phát động tấn công Đại Thanh. Dân tộc chúng tôi vốn yêu chuộng hòa bình. Chúng tôi chỉ vì t.ự vệ mà mới có hành động này.

- t.ự vệ? Các ngài đem quân đi đánh chiếm nước của Trẫm mà nói là t.ự vệ ư?

- Gia Khánh! Xin ngài hãy chú ý đến việc xưng hô. Chúng ta ở đây đều là những người có thể nói là đứng đầu một nước. Đương nhiên, tôi có hơi đề cao chính mình vì người đang tại vị tại Việt Nam là em tôi, Quang Toản. Nhưng trong một chừng mực nào đó, hiện tại tôi đang là tiếng nói lớn nhất của dân tộc ngay tại đây. Và ngài Augustus đây tương lai cũng là sẽ là vua George IV của Vương Quốc Anh Cát Lợi. Ngài không thể t.ự xưng là Trẫm được.

Gia Khánh thoáng bối rối một lúc, lại nói:

- Được rồi. Ngài nói xem, rõ ràng các ngài đem quân viễn chinh đánh chiếm Đại Thanh mà nói là t.ự vệ sao? Ngài xem Trẫm… ơ… tôi là trẻ lên ba sao?

- Chúng tôi làm thế này vì hai nguyên do. Thứ nhất, tại sao các ngài đánh chiếm nước tôi được mà không cho chúng tôi phản công? Chúng tôi đánh đến tận đây là để chứng minh mình không dễ bị bắt nạt. Và để các ngài biết rằng mình không phải là bá chủ ở đây, cũng yếu ớt giống như bất cứ quốc gia nào. Và cũng để cho ngài biết, chính nghĩa đang nằm trong tay chúng tôi.

- Thế thì các ngài đã làm được. Vậy sao các ngài còn chưa rút quân? Vẫn chiếm đóng Lưỡng Quảng và các hành tỉnh vùng Đông Nam của chúng tôi? Rõ ràng lúc này, các ngài đã biến thành kẻ xâm lược.

- Ngài lại sai rồi. Đây cũng chính là nguyên do thứ hai. Chúng tôi không đánh chiếm các tỉnh Đông Nam của Đại Thanh thì sao có thể đến được đây, buộc ngài phải nói chuyện? Và việc chiếm đóng Lưỡng Quảng là lẽ đương nhiên. Bởi vì đây vốn là đất của chúng tôi t.ừ thời Lý Thái Tổ đến rất xa trước đó. Đây là chúng tôi “đòi lại đất”. Sau cuộc hội nghị này, chúng tôi đương nhiên sẽ rút về Lưỡng Quảng, trả lại các hành tỉnh khác cho ngài.

Gia Khánh lại im lặng. Người ta nói đúng quá còn gì. Đánh Đại Thanh đúng là để chứng tỏ, hay nói đúng hơn, dân dã hơn là báo thù. Ngoài ra, đúng là trước đây Lưỡng Quảng vốn thuộc về người ta. Ngay cả người Choang đang sinh sống ở đó cũng có gốc là người Việt. Vậy thì nói được gì nữa bây giờ. Chỉ còn cách phản bác với sự chiếm đóng của bên thứ ba, người Anh Cát Lợi mà thôi. Ông ta quay sang Frederick:

- Ảo Cổ t.ử các hạ – Ông ta gọi Augustus như vậy bởi phiên âm tên ông là Ào gǔ sī. – Thế thì các ngài tấn công chúng tôi vì lý do gì? Rõ là các ngài vô cớ tấn công chúng tôi.

- Ha… ha… Cũng như Việt Nam, chúng tôi có hai nguyên do. Đầu tiên, ngài xem thử các ngài đối xử với người Anh Cát Lợi mà đại diện là tập đoàn Đông Ấn Anh thế nào? Họ chỉ là thương nhân. Thế mà, các ngài đã không cho phép họ làm ăn thì cũng thôi. Đằng này, họ bị xua đuổi, bị gọi là “mọi da trắng”. Đây là điều xỉ nhục. Tiếp nữa, ngài cũng biết Việt Nam và Anh Quốc là bạn bè, là họ hàng bởi Jack đây là con rể của cha tôi, là em tôi. Các ngài dấy binh đánh chiếm Việt Nam khác nào tát vào mặt cha tôi, đánh vào danh dự và uy tín của Vương Quốc Liên Hiệp Anh?

Mặt của Gia Khánh lại đỏ bừng. Ài, người ta, ai cũng có lý do đường đường chính chính, biết nói sao đây. Hơn nữa, mình đang ở t.ư thế của kẻ bại trận. Người ta bất cứ lúc nào cũng có thể bắt giết. Hai người trước mặt còn cho mình cùng ngồi nói chuyện đã là việc khó thấy rồi. Người ta đâu cần phải làm thế. Rốt cuộc, ông ta không thể nào không xuống nước. Ông nói:

- Thế thì mục đích của các ngài đã đạt được rồi. Chúng tôi phải làm thế nào để các ngài bãi binh?

- Vàng – Augustus nói. – Chúng tôi thật không có ý định chiếm lấy đất này làm gì. Nhưng chiến tranh nào mà chẳng phải tốn kém tiền của. Các ngài phải tốn một số tiền để chuộc lại mỗi vùng đất của mình. Đó là điều thiết thực nhất. Chúng tôi cũng chẳng cần các ngài phải bồi thường chiến phí để làm gì. Chưa hết, chúng tôi muốn Quảng Đông, Đài Loan và Hồng Kông.

“Ha… ha… thì ra nói thế nào các người cũng chỉ cần tiền. Cái này trẫm không cần phải đắn đo. Chưa hết, lũ An Nam kia muốn chiếm Lưỡng Quảng. Thế thì tại sao trẫm không cho các người thỏa nguyện chứ. Cả hai đều thèm muốn Quảng Đông. Vậy thì cứ để các ngươi tranh giành đi. Rồi có lúc trẫm sẽ đòi lại cả vốn lẫn lời”. Gia Khánh suy nghĩ như vậy. Song, ông ta chưa kịp lên tiếng thì Augustus lại nói tiếp:

- Jack à! Cậu đừng thắc mắc tại sao anh muốn Quảng Đông. t.ừ ngày cậu cưới Sophia, Hoàng gia vẫn chưa có của hồi môn cho cậu đúng không? Truyền thống của Hoàng gia Anh là khi gả con gái đi, phải có một vùng đất cho đôi vợ chồng trẻ để sinh sống và gây dựng tương lai. Vậy thì cậu hãy xem đây là quà hồi môn dành cho mình.

Augustus cố tình nói lớn bằng tiếng Anh Cát Lợi. Ông ta biết chắc chắn Gia Khánh cũng nghe người phiên dịch nói lại. Quả vậy, Gia Khánh sau khi nghe thấy thì mặt mày trở nên ủ rũ. Lúc này, Bàn lại nói:

- Về phần Việt Nam, chúng tôi cũng tính thế này. Ngoài Lưỡng Quảng, các ngài cũng phải bỏ ra một số tiền để chuộc lại đất đai của mình như người Anh Cát Lợi. Số tiền này dùng để kiến thiết hai vùng đất mới. Một phần được dùng để biếu cha vợ của tôi. Thế nào?

- Ý này cũng được đó Jack. Nhưng cậu không cần phải thế đâu. Tiền t.ừ những vùng đất kia cũng đủ rồi.

- Không anh à. Chúng ta là anh em mà, đúng không? Cha của anh cũng chính là cha của em. Hiếu kính với cha mẹ là điều nên làm.

Hai anh em, kẻ tung người hứng làm trái tim Gia Khánh như rỉ máu. Ấy là còn may khi Bàn không nhắc đến tiền chuộc thân cho Hoàng đệ Vĩnh Tuyền và con trai Hạo Mân. Lần này quả thật Đại Thanh triều đúng là thiệt hại nặng nề rồi. Bây giờ ông ta chỉ còn biết mặc cả làm sao cho mình phải trả một số tiền thấp nhất mà thôi.

Cuối cùng, về phần đất đai, Gia Khánh không thể nói được gì. Riêng về tiền chuộc, ông ta đành chấp nhận bỏ ra tám trăm ký vàng cho mỗi hành tỉnh, riêng Thiên Tân có diện tích không lớn nên xem như không tính. Vị chi, Đại Thanh phải tốn tám tấn vàng cho mười hành tỉnh và Thiên Tân. Số vàng này vốn phần nhiều phải thuộc về Việt Nam, nhưng Bàn lại nói nhượng lại một phần cho Anh Cát Lợi để mỗi bên có được bốn tấn vàng.

Sau cuộc hội nghị, một bản hiệp ước được soạn ra với những điều khoản như trên. Nó có tên là Hiệp ước Di Hòa Viên, được sao thành chín bản, mỗi bên giữ ba bản viết bằng ba thứ tiếng Anh – Hoa – Việt và chính thức có hiệu lực t.ừ ngày 1 tháng 2 năm 1806. Đó cũng chính là thời điểm mà Đại Thanh chi trả toàn bộ số vàng, đồng thời liên quân cũng rút về. Trong thời gian một tháng này, dưới sự sắp xếp của Việt Nam, Hồng Hoa hội cũng tạm dừng tấn công. Giữa Việt Nam và Thiên Địa hội lại còn có một mật ước nữa. Theo đó, Hồng Hoa hội sẽ nhận được một tấn vàng t.ừ Việt Nam và nước Trung Hoa mới sau khi họ giành lại t.ừ tay người Mãn Châu sẽ là đồng minh mới của Việt Nam.

Vậy là sau ba tháng, Quang Toản cùng dân tộc mình dã đòi lại vùng đất vốn đã mất vào tay người phương Bắc. Đồng thời, anh cũng đem về cho một số tiền lớn, dùng để chi cho mục tiêu phát triển đất nước. Tên gọi Việt Nam lúc này trong một thời gian ngắn đã gây ra một cơn chấn động trên toàn cầu. Tương lai hùng cường của đất nước cũng đã được khởi đầu t.ừ đây.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 68: Năm năm
Chương 68: Năm năm

Ở trên đời, có những người luôn chạy theo những việc lớn lao nhưng mãi vẫn là người tầm thường. Cũng có những người làm những việc hết sức tầm thường lại trở nên vĩ đại. Lại cũng có người từ khi xuất hiện đã được định sẵn là vĩ đại rồi. Nguyễn Quang Toản cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có thể xem anh là một người trong nhóm thứ ba. Nhưng xét cho cùng thì anh lại nằm trong nhóm thứ hai.

Anh chàng Việt kiều tuy xuất hiện trong vai trò là vua nhưng liệu anh có trở nên vĩ đại nếu không có từng bước cố gắng? Với phương châm “mỗi người là một anh hùng” mà Toản đã định ra từ những ngày đầu đến với thời đại này, Toản chưa bao giờ trực tiếp nhúng tay vào bất kỳ một cải tiến nào về phương diện kỹ thuật hay kinh tế. Thay vào đó, anh chỉ đóng vai trò của một người hướng dẫn và gợi ý. Giả như việc chế tạo mấy loại súng trường vừa rồi, anh chỉ gợi ý cho anh mình, Quang Thuỳ và Vũ Huy Tấn, thế là chúng ra đời một cách rất tự nhiên. Làm như vậy, trong tình cờ, Toản đã khơi dậy tính sáng tạo và lòng nhiệt thành của họ. Bởi thế, trong lòng mỗi người, hình ảnh của anh nổi lên như một người vĩ đại, không gì không làm được.

Lại nói về vùng Lưỡng Quảng. Đây là vùng đất xưa kia là một phần không thể thiếu của Bách Việt. Vùng đất này có thể nói chính xác hơn chính là lãnh thổ của nước Âu Lạc, Văn Lang xưa, sau lại gọi là Âu Việt. Gọi là thế bởi theo truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long Quân, nơi đây chính là vùng đất mà mẹ Âu Cơ đem năm mươi người con đi với lãnh thổ vừa khéo là tỉnh Quảng Đông và một phần Quảng Tây. Đối lại, nước Lạc Việt là vùng đất mà cha Lạc Long Quân bố trí cho năm mươi người còn lại, chiếm lĩnh vùng đất rộng lớn hơn, trải dài từ Tây Nam Quảng Tây đến một phần Vân Nam và Việt Nam ngày nay.

Bởi vậy, nói hai hành tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây là của Việt Nam là không sai. Lại nhớ ngày xưa, Lý Công Uẩn, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là có lý do. Chính xác bởi vì Thăng Long nằm ngay trung tâm đất nước. Mãi đến cuối thời nhà Lý thì hai vùng đất này mới bị mất. Bởi thế, việc lấy lại hai vùng đất này cũng chính là nỗi khắc khoải của Quang Trung Hoàng đế năm xưa.

Người Choang là dân tộc lớn nhất ở đây cùng hai tộc người khác. Họ cũng không xa lạ gì với Việt Nam, đó chính là người Miêu được biết đến với tên gọi H’Mông và người Tai cũng chính là người Thái. Một bộ phận khác không nhỏ là người Jing, chính là người Kinh với tên gọi là người Kinh Tam Đảo sinh sống ở Tây Nam Quảng Đông, Đông Nam Quảng Tây và đảo Hải Nam. Nói đến đây, không cần dùng đầu óc cũng hiểu, ba dân tộc lớn kia chính là hậu duệ của nhóm năm mươi theo mẹ Âu Cơ sinh sống ở vùng núi rừng, người Kinh theo cha sống ở vùng đồng bằng ven biển.

Bởi thế, khi được trở về với cội nguồn, các dân tộc này phải biết là hoan hỉ đến bực nào. Họ đã trở về với những người anh em của mình. Rất nhanh chóng, họ hoà nhập với triều đại mới, họ không còn bị coi là dân tộc thiểu số nữa. Họ cũng không còn phải nhìn thấy những ánh mắt kỳ thị của người Hán nữa. Phải nhớ rằng tôn chỉ của nhà Thanh là “Mãn – Hán một nhà”, vậy thì họ ở đâu trong mắt người Trung Quốc. Chỉ có nơi đây họ mới được xem là bình đẳng với các dân tộc khác. Cũng bởi thế, một quyết sách lớn của Toản được mọi người dân ủng hộ. Anh xoá bỏ tên gọi của tất cả dân tộc, gom lại thành một. Và từ đây, mỗi người đều tự hào xưng mình thuộc dân tộc Âu Lạc.

Thấm thoát mà đã năm năm trôi qua. Việt Nam ngày nay đã mang trên mình một diện mạo mới. Hai vùng đất mới nhanh chóng hoà mình vào không khí xây dựng sôi nổi trên cả nước. Đất nước lúc này mới thực sự có hình dáng của chữ S trọn vẹn. Với địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam, Toản cũng cho phân bố lại bản đồ ngành nghề. Vùng phía Bắc bao gồm hai hành tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây có địa hình đồi núi, khoáng sản dồi dào cùng nhiều vạt rừng nguyên sinh nên ưu tiên cho công nghiệp khai khoáng và luyện kim. Chính những vạt rừng nguyên sinh vô tình trở thành lá phổi tự nhiên cho cả vùng. Đương nhiên, chính sách bảo tồn rừng được Toản cho thi hành nghiêm ngặt.

Vùng đất từ đồng bằng sông Hồng kéo dài đến Bình Định trở thành miền Trung với Phú Xuân vô tình chiếm giữ vị trí của Thăng Long xưa, nằm ngay chính giữa đất nước. Người dân ở đây vốn lãng mạn và khéo léo, vô cùng phù hợp với ngành công nghiệp chế tạo cùng mỹ thuật. Những sản phẩm họ làm ra đạt đến trình độ tinh xảo vô cùng.

Phần còn lại, đương nhiên ai cũng hiểu. Đó chính là vựa lúa của cả nước bởi thổ nhưỡng màu mỡ với đồng bằng sông Cửu Long trù phú. Thêm nữa, nếu hiểu theo cách nói dân dã, thì đây là nơi “cấp vốn” cho cả nước bởi trình độ phát triển của ngành thương nghiệp đạt mức cao nhất với đầu tàu Sài Gòn.

Lại có hai thành phố cực lớn và giàu có được khai sinh, Quảng Châu và Nam Ninh. Như vậy, mỗi miền lúc này đều có hai trung tâm lớn, điều hành hoạt động của cả vùng. Miền Bắc đã biết, miền Trung chính là Cố đô Thăng Long và Kinh thành Huế vốn được Toản cho mở rộng Phú Xuân về phía thị trấn Huế. Miền Nam là Sài Gòn và thành phố mới Cần Thơ. Cũng phải nói thêm về hai thành phố phía nam, một là thủ phủ thương nghiệp, một là thủ phủ nông nghiệp. Lại nói đến Tây Nguyên nay thuộc miền Trung lại được dành hẳn cho ngành dệt may và các loài cây công nghiệp.

Về phương diện kinh tế là vậy. Lĩnh vực khoa học và giáo dục còn phát triển đến một mức cao hơn nhiều. Các trường học lại được tổ hợp lại thành từng khối với việc sáp nhập tiểu học và mầm non thành một khối gọi là khối Cơ sở, cấp Sơ Trung và Cao Trung nhập thành khối Nền tảng, trên nữa là khối Vào đời. Các kỳ thi chỉ được tổ chức vào mỗi năm học cuối khối. Riêng ở khối Nền tảng, có hai kỳ thi lớn gọi là Tú Tài một và Tú Tài hai nhưng học sinh lại được cấp chứng chỉ Nền tảng sau khi vượt qua kỳ thi Tú tài một ở lớp mười một và Bằng Tú Tài sau khi vượt qua kỳ thi còn lại. Đây cũng chính là cơ sở để tuyển chọn binh sĩ nhập ngũ làm nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc.

Chữ viết lúc này cũng thống nhất là chữ Quốc Ngữ. Về phần tiếng nói, Toản không ép các dân tộc khác chuyển sang tiếng Việt mà dùng nó làm ngôn ngữ chính. Các ngôn ngữ khác như Choang, Tày, Thái, Dao... vẫn được dùng như cũ nhưng khi viết lại được phiên âm thành chữ Quốc ngữ. Tuy vậy, trong cuộc họp hội đồng toàn thể các dân tộc, toan bộ mọi người đều nhất trí chính sách gộp dân tộc như đã nói. Và một điều nữa, họ lại đề nghị Toản chấp thuận quy định bất kể ai cũng phải dùng tiếng Việt. Nói thật, Toản vô cùng mừng rỡ vì điều này. Bởi vậy mới phát sinh thêm một việc nữa. Đó là biên soạn các bộ từ điển cho mọi người dễ dàng học tiếng Việt. Việc này anh giao lại cho Bộ Giáo dục cùng các vị tộc trưởng lo liệu.

Công tác nghiên cứu khoa học lại còn sôi nổi hơn. Ước mơ của Toản về tàu thủy cuối cùng cũng thành hình với người có công lớn nhất có tên Nguyễn Phúc Đảm, không có ai xa lạ, chính là con trai của Nhân Nghĩa Thái thượng hoàng Nguyễn Ánh. Anh bạn trẻ này nhanh chóng được phong làm Nhân Nghĩa Hầu, giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và là người Bộ trưởng trẻ tuổi nhất. Ngoài ra, còn có nhiều phát minh lớn như máy dệt, xe đạp, máy đập lúa dùng sức gió,...

Việc xuất hiện của tàu thủy chạy bằng động cơ hơi nước đã triệt để thay đổi bộ mặt của hải quân khi có việc mặc giáp sắt cho thuyền chiến. Đi đầu trong việc cải tiến này chính là Định Quốc. Trước tiên, người ta lắp những tấm thép dày mười xen ti mét bên ngoài vỏ gỗ rồi tháo lớp vỏ gỗ ra. Sau đó, họ lại đặt những thanh thép khác dày hơn bên cạnh các thanh gỗ rường bên trong làm khung sườn mới rồi gỡ khung cũ đi. Vậy là vỏ tàu đã xong. Việc tiếp theo là gỡ cột buồm và thay vào đó là động cơ hơi nước với bánh lái cùng chân vịt. Tuỳ vào mỗi loại tàu mà nó có số lượng động cơ khác nhau. Trong đó, Định Quốc lớn nhất với ba động cơ, ba ống khói và ba chân vịt. Tốc độ tàu nhờ thế mà càng cao hơn, đạt tới ba mươi hai knots, tức gần bảy mươi kí lô mét một giờ.

Cùng với sự xuất hiện của những chiếc tàu thủy chạy bằng hơi nước, khoảng cách giữa Việt Nam và những đồng minh của mình ở tận Âu Châu dường như ngắn lại rất nhiều. Tốc độ trung bình của chúng vào khoảng năm mươi đến sáu mươi kí lô mét một giờ. Bởi thế, nếu ngày trước phải mất ít nhất là tám tháng cho hành trình Việt Nam – Anh Cát Lợi thì nay chỉ là một tháng rưỡi nếu trời yên biển lặng và tối đa là ba tháng nếu gặp phải những sự cố giữa đường như bão biển hay cướp biển. Nhờ thế, việc giao thương trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Còn nữa, cũng nhờ nó mà những du học sinh và các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà sáng chế của cả hai nước có thể giao lưu, trao đổi với nhau nhiều hơn. Bởi vậy, trình độ khoa học kỹ thuật cùng kim ngạch buôn bán của Việt Nam và nước bạn đạt mức cao chưa từng có.

Nếu như tất cả các mặt của đời sống đều được nâng cao thì sức mạnh quân đội cũng phải tịnh tiến theo. Cả nước lúc này có cả thảy sáu quân đoàn đóng ở ba miền, hai quân đoàn cơ động cùng một quân đoàn biên phòng trải đều ở biên giới trên bộ. Hải quân thì nhờ sự xuất hiện của tàu thủy mà nhân lực trên mỗi con tàu cũng được giảm đi đáng kể. Vì vậy, hạm đội thứ năm đã xuất hiện. Ngoài ra, Toản cũng gợi ý cho Bộ Quốc phòng thành lập thêm ba sư đoàn mới với tên gọi “Lính thủy đánh bộ”. Đây chính là quả đấm thép, lực lượng viễn chinh trên biển và sẵn sàng trợ giúp các đồng minh của mình nếu cần.

Tuy nhiên, quân đội có lớn đến mức nào đi chăng nữa thì vẫn là khiếm khuyết nếu như thiếu đi hai bộ phận cực kỳ quan trọng, đó là Quân cảnh hay còn gọi là Kiểm soát quân sự và Toà án binh. Hai lực lượng này là tối cần thiết để giữ gìn kỷ cương quân đội và giải quyết các mâu thuẫn xuất hiện trong quân ngũ.

Tình hình trong nước là vậy, còn thế giới bên ngoài thì thế nào? Với Trung Hoa đại lục, chính quyền Đại Thanh mỗi ngày một suy yếu. Chỉ trong vòng hai năm, Gia Khánh đã buộc phải thoái vị. Hồng Hoa hội dưới sự lãnh đạo của Trần Quý, cháu gọi Tổng Đà chủ Trần Cận Nam của Thiên Địa hội ngày trước trong hơn một năm là ông đã từng bước đẩy người Mãn Châu về đất của họ. Một năm sau đó, họ chiếm luôn đất của người Mãn Châu. Trong thời gian giữa hai bên đang dằn co, Gia Khánh nhiều lần phải hạ mình phái sứ giả cầu viện láng giềng của mình là Nga La t.ư ở phía Bắc. Vua nước ấy là Sa Hoàng Aleksandr I ban đầu còn phái quân đến giúp cùng với sự viện trợ về vũ khí mới có thể cầm cự được một năm đầu tiên. Dù gì thì đây cũng là một Đế quốc. Họ đâu phải không công mà viện trợ cho Đại Thanh. Aleksandr I vốn định nhân cơ hội này mà chiếm luôn đất nước Trung Hoa. Song, khi biết sau lưng Hồng Hoa hội có bóng dáng của Việt Nam, một đồng minh quan trọng của mình trong Liên minh thứ ba thì nhanh chóng từ bỏ ý định. Mặt khác, ông ta còn quay sang ủng hộ Hồng Hoa hội nhằm tranh thủ lợi ích lớn nhất. Sau ngày thống nhất, Trần Quý theo lời Việt Nam mà thành lập nhà nước Trung Quốc, không gọi là Đại Minh hay danh xưng tương tự như vậy với chữ Đại đằng trước như tiền nhân. Ông ta cũng mở rộng bang giao với Anh Cát Lợi, Nga La t.ư và các nước nhỏ hơn như Nhật Bản, Triều Tiên, Miến Điện. Cũng theo lời t.ư vấn của Toản, ông ta đặt Trung Quốc ngang hàng với các nước khác, không tự xưng là Thiên triều như xưa. Ông ta cũng học theo Việt Nam mà tiến hành hàng loạt cải cách mà quan trọng nhất là ở lĩnh vực giáo dục.

Cũng trong thời gian này, tình hình chiến sự ở Châu Âu cũng nghiêng hẳn về Liên minh thứ ba. Cùng với sự tham chiến của Lính thủy đánh bộ Việt Nam cùng Hạm đội năm, phe của Phú Lang Sa mà đứng đầu là Hoàng đế Napoleon Bonaparte dần yếu thế. Chưa hết, với những loại vũ khí mua từ Việt Nam, Anh Cát Lợi cùng đồng minh đã làm chủ chiến trường. Đến năm 1809, Napoleon đầu hàng, kết thúc cuộc chiến kéo dài cả trăm năm ở lục địa già.

Như thế để thấy, sự lớn mạnh của Việt Nam đã làm thay đổi dòng chảy lịch sử hết sức mạnh mẽ. Tên tuổi của Việt Nam và vị vua của mình lúc này đã thật sự vang danh trên trường quốc tế.
 
Last edited:

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top