Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 49: Phát hiện mới
Chương 49: Phát hiện mới

Một ngày như mọi ngày, Toản đến phòng làm việc của mình sau khi dùng bữa sáng. Hôm nay, anh thấy trên bàn của mình có đặt một phong thư. Một điều rất lạ, phong thư được niêm phong bằng sáp, biểu tượng con dấu lại không phải thuộc về một người nào của triều Tây Sơn. Nhìn thật kỹ, Toản cảm thấy bất ngờ bởi anh hiểu được nó đến từ một người ở bên kia chiến tuyến, Duệ Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh. Một dấu đóng ghi chữ tuyệt mật đến từ CPQ bằng mực đỏ cùng với ngày tháng ghi ở mặt trước phong thư cho thấy nó được chuyển đến từ Cơ quan Phản gián Quốc gia và gửi đi cách nay bốn ngày.

Bằng thái độ hết sức tò mò, Toản mở niêm phong, rút ra một bức thư và bắt đầu đọc:

Gửi người bạn đến từ thế kỷ hai mươi mốt,

Toản chợt cảm thấy mồ hôi lạnh tuôn ra ướt đẫm cả lưng áo. “Tại sao… Tại sao Nguyễn Phúc Cảnh lại mở đầu bằng một câu hết sức lạ lùng như vậy?” – Toản thầm nghĩ. Ngạc nhiên hơn, tại sao anh ta lại biết Toản chính là anh chàng David Ho đến từ thế kỷ hai mươi mốt năm xưa. Chữ viết trên thư lại chính là chữ quốc ngữ, điều mà không bao giờ thấy ở Hoàng thất và bá quan nhà Nguyễn.

Có lẽ bạn hết sức ngạc nhiên khi đọc dòng đầu tiên của lá thư này. Và có lẽ cũng không khó để bạn nhận ra, tôi cũng như bạn, là người cùng thời, cùng đến với thế kỷ này. Cũng có lẽ, chúng ta đến đây với cùng thời điểm.

Nói thêm điều này nữa, có lẽ bạn sẽ hiểu rõ hơn. Bạn có nhớ đến cơn lốc xuất hiện ở bảo tàng Quang Trung? Nói đến đây chắc bạn cũng hình dung ra được rồi chứ. Tôi còn biết chắc cơn lốc xoáy đó xuất hiện là chính vì bạn và tôi cũng là người bị nó cuốn đi. Tôi biết tên bạn là gì, David Ho đúng không? Tôi biết điều này vì tôi chính là người hướng dẫn viên du lịch của bạn, Phạm Phú Long.

Thú thật, lúc đầu tiên khi đặt chân đến đây, tôi thấy vô cùng ngạc nhiên, lại rất thích thú nữa. Là một người có nghiên cứu lịch sử, điều tôi phải làm vì mình chính là một hướng dẫn viên du lịch mà. Thế nhưng, sau đó, tôi lại lâm vào khủng hoảng, tôi rất sợ khi phát hiện ra mình biến thành Nguyễn Phúc Cảnh, người sẽ chết vì căn bệnh đậu mùa mà y học nước nhà vô phương điều trị vào năm 1801. Tôi không cam tâm, thật lòng không cam tâm. Phải mất hai hôm tôi mới bình ổn được tâm tình của mình. Tôi bắt đầu tìm hiểu mình đang ở đâu trong dòng chảy lịch sử. Rồi cuối cùng tôi cũng xác định được mình đang ở vào năm 1792, tức là còn chín năm nữa là mình sẽ ra đi.

“Hóa ra là anh ta cũng bị kéo về thời đại này cùng với mình” – Toản nghĩ. “Hèn gì mình cảm thấy lạ khi nghe anh ba nói đã từng gặp Hoàng tử Cảnh ở Châu Âu mấy năm trước, điều mà trong lịch sử lại chẳng hề xảy ra”.

Tôi suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng đã quyết định. Dù sao thì mình không thể trở về thế kỷ hai mươi mốt vậy thì chính mình sẽ cải biến số phận của Hoàng tử Cảnh mà giờ đây đã trở thành Duệ Thái tử. Phụ hoàng, tôi tạm gọi Nguyễn Ánh là cha, vốn không đặt quá nhiều niềm tin vào tôi nên có lẽ, tôi sẽ phải tự hành động. Tôi dự tính, mình phải đi khỏi Việt Nam một thời gian, đến hết năm 1801 mới về. Khi đó, tôi chắc chắn mình sẽ không có khả năng mắc chứng bệnh này nữa. Thế là tôi dành ra ba năm để học cách tự vệ cho chính mình, cùng học cách mà vua chúa dùng để trị nước. Bất ngờ là những biểu hiện của tôi lúc này lại bắt đầu được Phụ hoàng xem trọng. Tôi được giao những trọng trách lớn hơn và cuối cùng là vị trí thành chủ thành Gia Định cùng nhiệm vụ xử lý mọi việc khi nhà vua xuất chinh.

Cũng trong thời gian này, tôi đã phát hiện ra anh. Chính những sự thay đổi của Miền Bắc cùng những “phát minh” như phổ biến chữ Quốc ngữ, hạt nổ, khai thác than đá đã tố cáo anh. Nói thật, lúc này tôi cảm thấy rất ganh tỵ. Cùng nhau trở về đây, anh thuận lợi mọi bề khi là một ông vua, muốn gì có nấy trong khi tôi chỉ là một Hoàng tử, lại chẳng được quan tâm gì nhiều. Nhưng thế thì sao nào, không phải là trong lịch sử, đến năm 1802 thì nhà Tây Sơn bị thất bại sao. Cho dù là anh có muốn thay đổi kết quả thì cũng phải mất ít nhất là mười năm mới có thể có đủ lực đánh bại Phụ hoàng. Trước mắt, tôi phải tìm cách “thoát chết” cái đã.

Những ngày tôi ở Châu Âu sau đó, tôi đã ra sức để mà học hỏi kinh nghiệm và phương pháp chiến đấu của người Pháp đặng sau này có thể giúp Phụ hoàng. Hơn nữa, được nói chuyện và chiến đấu bên cạnh thần tượng của mình, Hoàng đế Napoleon Bonaparte là một điều hết sức tuyệt vời. Ông ta ban đầu chỉ xem trọng tôi vì những tin tình báo về loại vũ khí mới mà theo tôi biết, đến giờ phút này người Pháp vẫn chưa tìm ra mấu chốt nằm ở đâu. Sau này, nhờ những chiến công cũng như những đóng góp của tôi mà ông ta dần dần quý mến tôi hơn. Chính ông ta đã phát biểu, nếu một ngày nào tôi còn sống, ông ta sẽ không bao giờ có ý định xâm phạm Việt Nam.

Thế rồi, qua những vị bác sĩ và những nhà nghiên cứu về sinh học, tôi biết chắc một điều, bản thân mỗi người đều có mang trong mình những con vi rút chết người này, chỉ là khi gặp điều kiện môi trường phù hợp sẽ chính thức phát bệnh. Tôi lại nhớ ra, không phải lúc nhỏ mình đã được chích ngừa đậu mùa sao? Tôi cảm thấy chán chường kinh khủng. Tôi quyết định trở về nước mà quên mất một điều mãi đến hôm nay mới nghĩ ra. Con vi rút kinh khủng kia chỉ phát ra tác hại khi gặp điều kiện thuận lợi. Tức là nếu tiếp tục ở lại Châu Âu thì nó sẽ không làm gì được tôi.

Nói về tôi bấy nhiêu là đủ. Tôi trở về nước và làm việc thuận theo tự nhiên thôi, cũng không có hùng tâm tráng chí gì bởi lẽ đằng nào mình cũng phải chết. Vả lại, có một điều này, dù sao, trong tâm tưởng của mình, tôi rất yêu đất nước, yêu nhà Tây Sơn. Đến cách đây mười ngày, tôi được Đại tá Lampier mời đến khách sạn Toàn Thịnh dự yến tiệc. Lúc ra về, tôi lại được cảnh báo mình đã trúng độc rồi phát hiện mình lại mắc một căn bệnh. Đối chiếu với nhũng triệu chứng gần đây, tôi đã khẳng định, căn bệnh quái ác kia đã đến. Thật không khó để suy đoán ra khách sạn này chính là tác phẩm của anh. Tôi đã thử nghĩ, biết đâu không phải là người Pháp hạ độc tôi mà chính là do các anh sai người ám sát. Mấy ngày qua, tôi đã cho người thám thính và phát hiện ra người Pháp quả là đang điều đến hơn bảy mươi tàu chiến, cách Phú Quốc khoảng một trăm hải lý. Tôi chợt hiểu, anh dù đang đứng bên kia chiến tuyến cũng không muốn thấy cảnh đất nước bị xâm chiếm bởi người Pháp. Có lẽ anh cũng biết là chẳng cần phải ám sát tôi làm gì. Việc người Pháp tấn công chắc cũng chẳng làm anh mấy bận tâm và có lẽ có lợi cho anh nữa. Nhưng đây chưa phải là thời điểm thích hợp để gây chiến với họ. Anh còn đang lo lắng cho trận thư hùng nam bắc. Vậy thì chắc chắn việc tôi bị hạ độc là kiệt tác của người Pháp.

Thêm điều này nữa. Mấy ngày nay, tôi không nhận được tin tức gì về tướng Nguyễn Huỳnh Đức. Tôi hiểu ra một điều, anh đã làm thay đổi lịch sử và nhà Tây Sơn sẽ chiến thắng chung cuộc. Bởi thế, tôi mới mạo muội viết cho anh bức thư này. Mong rằng dù gì thì anh cũng hãy nghĩ đến đồng bào mình. Hãy phái đến đây một đoàn thuyền chiến để nhấn chìm người Pháp xuống sâu dưới đáy biển. Chắc điều này sẽ không khó đối với anh. Việc chiến thắng quân Miền Nam đã nằm trong tay anh rồi. Với ưu thế về hỏa lực, cộng với việc đánh bại cánh quân của Nguyễn Huỳnh Đức mà theo tôi chính là nguyên nhân mà không có một tin tức nào chuyển về thì có lẽ trong vòng một tuần lễ nữa theo cách tính của người thời đại chúng ta, anh sẽ dành được toàn thắng với mức tổn thất tối thiểu. Tôi viết ra đây bằng tất cả lòng chân thành của mình. Phụ hoàng đem ra trận gần như là toàn bộ binh lực rồi. Thành Gia Định lúc này chỉ có mười bảy nghìn binh sĩ lại chưa có kinh nghiệm chiến đấu. Lại còn bốn vạn quân dự bị rải rác khắp các tỉnh thành nữa là hết.

Tôi thật đã suy nghĩ rất lâu và rất kỹ mới viết ra những dòng này. Bí mật về khách sạn Toàn Thịnh tôi cũng giữ kín. Ngay tối nay, tôi sẽ chủ động đến tìm gặp người nữ Quản lý của khách sạn để gửi bức thư này. Mong rằng nó sẽ đến được tay anh.

Gia Định, ngày 12 tháng 3 năm 1801 (theo lịch người Pháp và cũng là lịch anh đang dùng),

Phạm Phú Long

P/s: Sau này, xin anh đem hài cốt của tôi về chôn ở huyện Hoài Ân nhé. Tôi vốn là người sinh ra và lớn lên ở huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định trong thời đại của chúng ta.

Gấp bức thư lại, trong lòng Toản nổi lên nhiều cảm xúc khó tả. Anh thấy cảm thương cho một con người chỉ vì chính mình vô tình rơi vào tình cảnh hiện tại. Anh lại càng thấy phục sự thông minh của anh ta. Chắc chắn một điều, nếu anh ta không bi quan vì số phận thì kết quả ngày nay đã khác, Miền Nam sẽ còn phát triển rực rỡ hơn bây giờ nhiều. Và anh còn khâm phục anh là một người biết suy nghĩ vì đất nước.

Suy nghĩ thật nhiều, Toản đã ra quyết định của mình. Trận chiến với Nguyễn Ánh cũng sắp đến hồi kết thúc. Thành Diên Khánh lúc này đã nằm trong tay của Đặng Văn Phi. Nhà Tây Sơn lúc này vẫn còn một quân đoàn lớn cùng khoảng mười lăm nghìn quân dự bị đang trú đóng ở kinh thành Phú Xuân. Lại còn có một hạm đội đang đóng ở Vịnh Hạ Long nữa chứ. Đã đến lúc ra đòn quyết định, tấn công tổng lực đối với nhà Nguyễn ở phương nam rồi.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Quang Huy cùng hai người anh được mời gấp đến văn phòng của Toản. Lúc này, anh không cần sự bàn bạc của ban tham mưu nữa, cần quyết định ngay. Cũng phải mất một tiếng sau, ba người nọ mới có mặt. Trên mặt họ, ai cũng biểu hiện ra vẻ ngạc nhiên, không hiểu mình được vời đến là vì việc gì. Có một điều mà ai cũng nhận thấy, nhà vua hôm nay rất khác, có vẻ rất căng thẳng. Không đợi mọi người lên tiếng, Toản nói ngay vào đề:

- Hai anh cùng với Bộ trưởng. Chắc rằng các vị cảm thấy rất ngạc nhiên khi được triệu tập gấp đến như vậy. Có một tin tình báo hết sức quan trọng và đáng tin cậy vừa chuyển đến. Đã đến lúc chúng ta đánh đòn quyết định với Nguyễn Ánh rồi. Hơn nữa, lần này phải kể đến việc tiêu diệt luôn dã tâm của người Phú Lang Sa.

- Bệ hạ – Nguyễn Quang Huy thưa. – Không biết tin tình báo nói thế nào.

- Mọi người chú ý nhé. Hiện thời, Nguyễn Ánh gần như đã dồn hết binh lực để quyết chiến với ta ở đèo Cù Mông. Trong thành Gia Định chỉ còn mười bảy nghìn quân, đây là con số chính xác, cùng với bốn mươi nghìn quân dự bị rải rác các nơi. Ngoài ra, có hơn bảy mươi chiến thuyền của người Phú Lang Sa đang phong tỏa ngoài khơi vùng biển phía nam.

- Tin tức này từ đâu mà chú có, chú t.ư? – Thùy hỏi.

- Từ chính kẻ đối đầu với ta, Duệ Thái tử Cảnh. Nhưng em biết, đây là tin hết sức chính xác. Tại sao em lại tin tưởng vào tin này của y thì sau này các anh và tướng quân đây sẽ hiểu. Nhưng trước mắt, không thể để lọt việc này ra ngoài.

- Bệ hạ. Thần còn sống đến ngày nay và có địa vị thế này đều là do một tay ngài ban cho. Thần sẽ không thắc mắc. Ngài cũng không cần giải thích lý do, cứ ban một lời, thần sẽ thi hành ngay lập tức.

- Tốt, ta tin tưởng vào anh. Chúng ta hiện đã chiếm được thành Diên Khánh. Cánh quân đó sẽ không cần quay lại bao vây Phú Yên và đèo Cù Mông nữa. Khanh hãy lệnh cho họ nam tiến, hạ thành Gia Định.

- Thần tuân lệnh.

- Anh hai, anh hãy đem theo hai phần ba quân đoàn một tiến về đèo Cù Mông. Anh được trao toàn quyền thống lĩnh, dứt khoát đánh tan mười vạn quân của Nguyễn Ánh.

- Được. Chú cũng biết anh ngứa tay lắm rồi.

- Anh ba, anh đi biển nhiều năm. Bây giờ anh hãy lên soái hạm Vinh Quang, điều toàn bộ chiến thuyền Định Quốc cùng hai phần ba hạm đội một một đường tiến về Gia Định. Anh phải đi một vòng lớn, tránh không cho hạm đội hai và ba biết. Anh hãy nhấn chìm toàn bộ chiến thuyền của người Phú Lang Sa xuống đáy biển, quyết không cho một tên nào sống sót. Và nhớ, chúng ta không thu nhận hàng binh.

- Được. Anh sẽ chứng tỏ cho người Châu Âu biết, người Việt chúng ta không phải là quả hồng mềm.

- Còn nữa, anh hai. Việc xách động đám người Thiên Địa hội và cướp biển ở phía Bắc tiến hành thuận lợi không?

- Hết sức thuận lợi. Hiện giờ nhà Thanh không có tâm t.ư để lo cho chúng ta đâu.

- Thế thì tốt, thiên thời, địa lợi, nhân hòa đã nằm trong tay chúng ta. Thời khắc làm nên lịch sử đến rồi.

Nói đến đây, ánh mắt của Toản như bừng lên muôn ngàn tia sáng. Người yếu bóng vía nhìn vào có lẽ sẽ cảm thấy run sợ mà lẩy bẩy tay chân. Với hai người anh lớn, họ hết sức tin tưởng em mình sẽ làm nên nghiệp lớn. Và sự sắp đặt của vua Quang Trung ngày xưa khi không giao Đế vị cho hai người con lớn mà để cho họ phù trợ vua em đã hoàn toàn phát huy tác dụng. Ba anh em lúc này cùng nắm lấy tay nhau. Họ cùng nhau hét lớn, “Tây Sơn bất bại. Tây Sơn trường tồn. Đại Việt trường tồn”.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 50: Người Phú Lang Sa tấn công
Chương 50: Người Phú Lang Sa tấn công


Trời buồn trời tiếc thương ai

Mà sầu đổ lệ bi ai xuống trần



Thanh Gia Định hôm nay nhuốm một màu tang thương. Vị thành chủ trẻ tuổi, tài cao vang đang hôm nay đã từ giã cõi đời. Anh ra đi bỏ lai vợ cùng hai đứa con thơ. Vậy là Nguyễn Phúc Cảnh đã ra đi vào ngày 20 tháng 3 năm 1801 mang theo nhiều tiếc thương. Người có khả năng kìm chế sự xâm phạm của người Phú Lang Sa nay đã không còn.

Người chủ trì tang sự cho Cảnh là Hộ bộ Tham tri Trịnh Hoài Đức, người được anh ủy thác từ trước. Sự ra đi của Cảnh cho dù đã được dự báo từ trước nhưng trong tâm khảm ông ít nhiều cũng có chút bàng hoàng và tiếc nuối. Ông lại còn rất ngạc nhiên khi vị Thái tử trẻ căn dặn phải chủ động gây hấn với người Phú Lang Sa. Lý do lại hết sức kỳ lạ, đó là để cầu viện nhà Tây Sơn. Ông vô cùng ngạc nhiên khi việc gây hấn này lại là sự cầu viện. Ông dù đã đoán trước rằng đại thế nhà Việt Nam đã mất, sự sụp đổ sẽ đến trong sớm tối và mặc dù nhà Tây Sơn thế rất mạnh nhưng chẳng lẽ họ không chịu cảnh thương gân động cốt sau một hồi quyết chiến với đoàn quân của Hoàng thượng hay sao? Lẽ nào đang trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này mà họ chấp nhận vượt hàng trăm cây số để đến đây giải nguy cho Gia Định hay sao? Và còn nhiều, rất nhiều điều nữa mà ông không thể lý giải nổi.

Trịnh Hoài Đức nhớ như in buổi nói chuyện cuối cùng với Cảnh hai ngày trước. Cảnh bảo ông không được đụng đến bất cứ vật gì trong phòng, lại phải mang khăn che mặt. Các cánh cửa sổ cũng được đóng kín, trong phòng nghi ngút mùi hương trầm và long não. Thái tử cũng che kín mặt, thế nhưng vẫn không giấu được những cái mụn bọc trên trán và mu bàn tay. “Làm thế này để ta không lây bệnh cho người khác. Ta mất đi, ông cũng hãy cho người ngày ngày vào đây đốt lò than để không khí không còn những vật ô uế”. Đó là những lời dặn dò đầu tiên của Cảnh. Lái câu chuyện qua hướng khác, Cảnh hỏi Trịnh Hoài Đức:

- Trịnh Hoài Đức, ông có phải là một người yêu nước? Ông có thấy đau lòng khi người Pháp giẫm đạp lên quê hương ta?

“Thái tử nghĩ sao mà lại hỏi mình như vậy? Còn nữa, người Pháp là ai? Phải chăng trong cơn bạo bệnh, Thái tử lầm lẫn tên gọi người Phú Lang Sa là người Pháp hay chăng?” – Đức nghĩ thầm như thế.

- Thái tử, Ngài hiểu rõ tôi yêu mến đất nước này đến dường nào. Và người Pháp là ai? Phải chăng ý ngài là người Phú Lang Sa?

- Pháp và Phú Lang Sa chỉ là một thôi. Chúng ta gọi là Phú Lang Sa là vì người phương Bắc gọi như thế. Với họ, ta chỉ cần nói người Pháp là đủ. Ông cũng đừng thắc mắc. Ông thử cho tôi biết nhận định thế nào về đất nước trong thời gian tới, ta hay nhà Tây Sơn sẽ thắng?

- Ra là thế. Thứ cho thần nói thẳng. Triều đình ta sụp đổ là điều sớm muộn. Bước ngoặt chính là trong trận quyết chiến đang diễn ra. Nếu như Hoàng thượng có thể chiến thắng thì người làm chủ giang sơn này chính là chúng ta. Thế nhưng khả năng này nhỏ vô cùng. Hơn nữa, nếu có thắng, chính chúng ta cũng sẽ bị đại thương. Bằng ngược lại, Ngụy quân có nhiều ưu thế hơn chúng ta. Nhưng kết thúc trận chiến, họ cũng chẳng còn bao nhiêu binh mã. Người Pháp sẽ dễ dàng đập tan. Vậy là dù có là ai chiến thắng chung cuộc đi chăng nữa thì ta vẫn sẽ phải lâm vào tình cảnh nước mất nhà tan thôi.

- Ông nói đúng mà chưa đúng. Đúng là bởi vì triều ta sụp đổ ngày một ngày hai. Sai là bở vì cả hai phía sẽ không phải đại thương đâu. Và người Pháp cũng không có khả năng đè bẹp được đoàn quân Tây Sơn, đặc biệt là trên biển.

- Ý Thái tử là sao? Thần không hiểu.

Quả thật, Đức không ngờ Cảnh lại có suy nghĩ như thế. Căn cứ vào đâu mà anh ta lại cho rằng nhà Tây Sơn lại có thể thắng lợi dễ dàng như vậy. Và tại sao người Pháp với đội thuyền chiến hùng hậu thế mà lại sẽ phải chịu thất bại trước đoàn chiến thuyền Tây Sơn.

- Ta biết ông đang rất nghi hoặc. Này nhé, lúc này thành Diên Khánh có lẽ đã mất, nhà Tây Sơn đang một đường vượt qua Cam Ranh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Biên Hòa để tiến về đây. Đoàn quân của Phụ Hoàng đang bị cầm cố ở đèo Cù Mông. Đoàn chiến thuyền của ta có lẽ cũng sẽ bị nghiền nát khi tiến về phụ cận Quy Nhơn.

- Ý ngài nói là cánh quân của tướng quân Nguyễn Huỳnh Đức thật sự đã bị đập tan? Và toàn quân bị diệt? Họ không quay về giáp công hai mặt Hoàng thượng mà nhất tề đánh đến đây?

- Phải. Sự thật đã rõ mười mươi. Ta trong thời gian ở phương Tây đã mục kích sự đáng sợ của đại pháo và uy lực của loại súng mới mà họ chia sẻ với người Anh. Đặc biệt hơn là những quả đạn mà họ gọi là tên lửa. Tầm bắn của chúng phải gấp đôi đạn đại bác của ta. Tin ta đi, trong vòng ba đến năm ngày nữa, Phụ hoàng sẽ bại trận. Phụ hoàng sẽ không bị bắt, nhưng người sẽ tự vẫn và các binh sĩ khác sẽ phải đầu hàng.

Trịnh Hoài Đức trầm ngâm suy nghĩ. Ông dù còn nghiều nghi hoặc nhưng những phán đoán của vị Thái tử trẻ chưa bao giờ sai lệch.

- Có lẽ ngài đã đúng. Nhưng còn tại sao người Pháp sẽ phải chịu thua họ? Và như ngài nói, đặc biệt là họ thua ngay trên biển?

- Vì những chiếc Định Quốc. Một chiến thuyền như thế có thể dễ dàng nhấn chìm ba chiếc chiến thuyền cấp ba của người Pháp. Hơn nữa, họ còn có hàng trăm chiến thuyền khác, nhỏ hơn, nhẹ hơn và tốc độ nhanh hơn. Ông thử nghĩ, bảy mươi chiến thuyền của người Pháp sẽ làm gì được nếu bị hàng trăm chiếc nhỏ hơn bao vây? Đã vậy còn có hỏa lực của những chiếc Định Quốc từ bên ngoài bắn vào.

- Thần hiểu rồi. Vậy theo ngài, giờ đây chúng ta phải làm gì?

- Ta đoán, trong vòng một tuần lễ nữa, đoàn thuyền Tây Sơn sẽ đến đây. Và ngày ta phải về trời cũng không còn xa nữa. Ta hiểu rõ sức khỏe của mình. Việc của ông cần làm là phải gây hấn với người Pháp ngay sau khi ta chết. Hãy lấy lý do là ta bị chính Đại tá Lampier hạ độc mấy ngày trước ở buổi Toàn Thịnh Yến. Hãy bắt y, nếu có thể thì xử tử ngay. Khi đó, người Pháp sẽ tấn công ta vì dám giết một sĩ quan cấp cao của họ. Việc cấp bách tiếp theo là ráng sức cầm cự, không cho người Pháp đổ bộ trên đất ta chờ nhà Tây Sơn đến.

- Thần hiểu rồi.

- Ta còn một bức di thư nữa. Phiền ông lưu lại, khi nhà Tây Sơn đến thành, hãy mở cửa, đừng phòng thủ làm chi. Ông hãy đưa bức di thư này cho vị tướng cầm quân của họ. Bảo ông ta hãy chuyển đến cho vua Cảnh Thịnh và không ai được đọc bức thư này, kể cả ông. Ông hãy cầm lấy nó, hơ qua lửa để diệt hết mọi sự ô uế bám vào rồi theo lời tôi mà làm.

- Thần, tuân chỉ.

- Thôi, ta mệt rồi. Ông lấy bức thư rồi ra về sắp đặt như ta nói.
Trịnh Hoài Đức trở về với thực tại khi nghe thái giám truyền chỉ nói có Đại tá Lampier đến viếng. “Hừ, ông ta đến thật đúng lúc” – Đức nghĩ. Đoạn ông ra lệnh cho cấm vệ quân:

- Người đâu, bắt trói Lampier lại cho ta và mang đến đây.

- Dạ!

Mấy anh lính dạ ran rồi thi hành lệnh ngay lập tức. Không mấy khó khăn, họ đã bắt trói được Lampier và đưa đến trước mặt Trịnh Hoài Đức. Nhìn thẳng vào người sĩ quan Phú Lang Sa trước mặt, ông nói:

- Ta và Thái tử khi còn sống đã cho người âm thầm điều tra. Kẻ hạ độc và gây ra cái chết cho Thái tử là chính y.

Đoạn, ông lập lại lời vừa nói bằng tiếng Phú Lang Sa cho Lampier nghe. Vị Đại tá tuy có bất ngờ nhưng vẫn ngoan cố đáp trả:

- Các ông lấy lý do gì mà bảo chính chúng ta hạ độc? Không phải chính tôi cũng trúng độc hay sao? Chính người của khách sạn Toàn Thịnh làm.

- Ông không cần chối cãi quanh co. Đây là điều mà đích thân Thái tử tra được. Ngài còn bảo là sẽ xử tử ông ngay lập tức để trên đường đến Hoàng tuyền Ngài còn có bạn.

- Các ông dám sao? Nên nhớ tôi là sĩ quan cấp cao của Pháp. Có cả trăm chiến thuyền và mười nghìn binh lính Pháp đang ở ngoài khơi. Tôi chết thì cả thành này sẽ chìm trong biển lửa.

- Không cần nói nhiều nữa, yên tâm mà ra đi đi.

Đoạn, ông quay lại nói với mấy người cấm vệ quân:

- Đem y ra ngọ môn, xử tử ngay lập tức.

- Tuân lệnh.

Lampier nhanh chóng bị lôi ra ngoài ngọ môn. Trước ánh mắt giận dữ của dân chúng khi biết được “tội ác” của y, Lampier nhìn tên đao phủ chầm chậm bước tới mà không khỏi run lẩy bẩy. Y nào biết chính mình mới là cái cớ để chiến sự bùng nổ chứ không phải là một sự dàn xếp nào khác.

Phập!!! Lưỡi đao chém mạnh xuống. Nhát chém rất lạnh lùng và dứt khoát. Giờ đây, Lampier đã đầu một nơi, mình một nẻo.

Tiếng reo hò vang lên khắp nơi. Dân chúng trong thành tỏ ra vô cùng phấn khích khi thấy “kẻ tội đồ” đã phải rơi đầu. Mà hơn thế nữa, kẻ phải chết lại là một người Phú Lang Sa, là một sĩ quan cao cấp. Trong đám dân chúng đứng xem hành hình đó, có mấy người Phú Lang Sa. Họ không những không thấy lo sợ mà ngược lại, nụ cười lại nở trên môi. Họ nhanh chóng rút ra và chạy về Tô giới nhanh nhất có thể.

Ba ngày tang gia vừa hết cũng là lúc đoàn chiến thuyền của người Phú Lang Sa phong tỏa cảng Bến Nghé. Trịnh Hoài Đức trước đó huy động một trăm chiến thuyền còn lại làm thành hai vòng phòng thủ hình bán nguyệt che chở bên ngoài thành Gia Định. Ông không phải là một vị tướng nên chỉ nghĩ đơn giản với hai vòng chiến thuyền này thì đối phương không thể nào xâm nhập. Nếu nhìn từ trên cao, thành Gia Định như được bao bọc bởi hai bức tường khổng lồ. Những con thuyền xếp chật như nêm.

Với cách phòng thủ này, nhìn bề ngoài thì có vẻ rất kín kẽ, đối phương không thể nào tấn công được. Quả vậy, trong thời gian đầu, những chiến thuyền của người Phú Lang Sa cố gắng tấn công vào nhưng không được. Binh sĩ Việt Nam thấy thế thì sảng khoái vô cùng. Mấy ngày qua lo sợ nhiều quả là thừa thải, đó chính là suy nghĩ chung của những người đang phòng thủ. Họ nào biết đây mới chỉ là những đòn thử của đối phương.

Tổng chỉ huy của hải đội Phú Lang Sa lúc này là Chuẩn Đô đốc Francois Jannier. Sau một ngày thử dùng những chiến thuyền lớn cố gắng khoan thủng tuyến phòng thủ của đối phương không thành công vẫn cảm thấy không hề nao núng. Ngược lại, trên gương mặt của vị tướng hải quân dày dạn kinh nghiệm trận mạc lại nở một nụ cười. Đó là một nụ cười khinh thường. Ông quay sang nói với phụ tá của mình là Trung tá Daniel Rolande:

- Daniel, anh xem, cái lũ Việt Nam này đúng là ngu hết thuốc chữa. Anh có biết vì sao không?

- Chuẩn Đô đốc, rõ ràng chúng không biết tác chiến trên biển là gì. Các chiến thuyền đứng cố định như thế chẳng khác nào trở thành cái bia tập bắn cho chúng ta. Chúng lai còn không biết trở mạn thuyền để tận dụng đại bác của cả hai mạn nữa chứ.

- Thế theo anh thì tiếp theo chúng ta sẽ làm gì để khoan thủng phòng tuyến của chúng?

- Chúng ta chỉ cần dùng những thuyền nhỏ lao thẳng vào. Đại bác của chúng sẽ khó bắn trúng những chiếc thuyền này. Hơn nữa, thuyền nhỏ có tốc độ rất cao, chúng sẽ nhanh chóng tiếp cận phòng tuyến địch. Lúc đó, chúng cứ việc xen vào giữa mà bắn hết đại bác hai bên mạn thôi là đủ. Hoặc đơn giản hơn, các thuyền này đâm thẳng vào những chiếc thuyền to lớn kia. Địch sẽ bị rối loạn ngay. Lúc này, chúng ta có thể cho thuyền lớn tiếp cận dùng đại bác oanh tạc từ xa là đủ.

- Ha... ha... Không uổng công anh theo ta mấy năm nay. Thế mà không hiểu sao Tổng tài cứ nhắc đi nhắc lại chúng ta phải cẩn thận.

- Thế khi nào ngào cho tấn công? Ngay trong đêm nay chăng?

- Không. Hãy để sáng mai, khi trời đã sáng tỏ. Ta muốn những tên da vàng trên bờ kia hiểu được thế nào là nghệ thuật.

Vậy là đúng chín giờ sáng hôm sau, Chuẩn Đô đốc Jannier sai Trung tá Rolande ra hiệu lệnh cho mười chiếc Gale nhỏ hơn và cơ động lao thẳng vào phòng tuyến của Việt Nam. Quả thật chẳng mấy chốc mà phòng tuyến thứ nhất đã bị khoan thủng.

Đứng trên bờ, Trịnh Hoài Đức lo lắng khi nhìn thấy từng cột khói đen bốc len từ những chiến thuyền của mình. "Phải làm sao đây? Thái tử căn dặn bằng mọi giá phải kìm chân giặc trên biển, không cho chúng tràn lên bờ khi đoàn thuyền Tây Sơn chưa đến".

Vậy là tuyến phòng thủ thứ nhất đã tan vỡ. Trong ánh mắt thất thần của vị Hộ bộ Tham tri, người ta thấy được sự bất lực cùng với những giọt nước mắt thống khổ của ông. Điều mọi người mong đợi nhất lúc này, đoàn chiến thuyền Tây Sơn vẫn chưa thấy tăm hơi. Liệu họ có đến kịp lúc để giải vây như những dự đoán của Duệ Thái tử Nguyễn Phúc Cảnh khi còn sống hay không đây?
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 51: Cảng Bến Nghé dậy sóng
Chương 51: Cảng Bến Nghé dậy sóng​

Đứng trên soái hạm, Chuẩn Đô đốc Jannier dõi mắt nhìn về cuộc chiến trên cảng Bến Nghé. Ông ta nở một nụ cười ngạo nghễ. "Ha... ha... Thế mà vị Tổng tài kia nhiều lần cảnh báo ta phải thật thận trọng khi tấn công đám người này. Rõ ràng chúng chỉ là một lũ da vàng ô hợp. Cái vùng đất mông muội này sinh ra được một tên Thiếu tá Cảnh đã là vô cùng may mắn rồi. Hắn đúng là một thiên tài quân sự, tiếc là còn quá trẻ để hiểu thấu sự đời. Giá như hắn sinh ra trên đất Pháp thì may ra còn có đường mà lớn lên".

Chiến sự vẫn tiếp tục diễn ra theo huống một chiều. Tuy nhiên, mọi việc không còn nhẹ nhàng như lúc đầu nữa. Người Việt nổi tiếng nhanh trí. Những chiến thuyền còn lại dù chỉ còn hai phần ba lúc đầu, thiệt hai rất lớn nhưng những chỉ huy và binh sĩ dường như đã biết rút kinh nghiệm. Lợi dụng hướng gió Đông Bắc, họ di chuyển thành một hàng về cánh phải. Những chiếc Gale của người Phú Lang Sa dần mất đi ưu thế. Sự di chuyển này cũng giúp lộ ra một khoảng trống, thuyền của những kẻ xâm lược lập tức bị hút vào. Không bỏ qua cơ hội, những khẩu đại bác trên bờ đồng loạt khai hỏa. Đã có những chiến thuyền đầu tiên của kẻ thì bốc cháy và chìm xuống biển.

Tuy vậy, người Phú Lang Sa không phải là những kẻ ngu. Họ nhanh chóng đổi chiến thuật. Những chiếc chiến thuyền lớp Frigate xếp thành một hàng dài, chạy song song với đối phương theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Lợi dụng những cơn gió từ phía bắc thổi xuống, tốc độ của họ trở nên rất nhanh. Chuẩn Đô đốc Jannier cho đoàn thuyền của mình cắt đầu và vòng qua đối phương theo hình chữ U.

Tình hình của chiến thuyền Việt Nam lúc này rất nguy cấp. Thuyền giặc đã vòng qua ở phía đầu tức là họ không thể di chuyển được nữa. Mỗi chiến thuyền lúc này bị kẹp giữa hai chiếc của đối phương. Họ liên tục bị oanh tạc từ hai phía trong tầm gần trong khi những khẩu đại bác trên bờ không dám bắn tiếp, sợ đạn lạc trúng người của mình.

Từng chiếc, từng chiếc chiến thuyền Việt Nam bắt đầu từ trước đến sau dần chìm xuống biển. Tiếng người kêu la, than khóc vang trời. Đứng ở trên bờ nhìn ra, gương mặt Trịnh Hoài Đức như già đi hàng chục tuổi. Nước mắt ông lã chã rơi. "Hết rồi! Thua mất rồi! Bài tính của Thái tử vậy là không còn linh nghiệm nữa". Đoàn chiến thuyền sau đợt công phá lần trước chỉ còn bảy mươi chiếc giờ cũng rơi rụng dần. Sáu mươi chín, sáu mươi lăm, sáu mươi, năm mươi ba, số lượng thuyền cứ thế giảm dần.

Đang lúc buồn rầu, lo lắng, một người lính hớt hải chạy vào trình tấu:

- Bẩm Tham tri đại nhân! Từ trên vọng hải đài ở Vũng Tàu, chúng ta quan sát thấy có một đoàn chiến thuyền đang tiến đến từ hướng Bắc.

- Các ngươi có xem thấy cờ hiệu không?

- Dạ, là cờ của ta.

Trịnh Hoài Đức thoáng thất vọng. Vậy là nhà Tây Sơn không đến rồi.

- Còn nữa, thưa đại nhân. Đoàn thuyền của ta chỉ có vài chiếc, theo sau là một đoàn lớn hơn nhiều của giặc Nguỵ. Hai đoàn này ở rất xa. Muốn về đến đây chắc cũng phải mất một ngày.

- Thế sao? Còn gì nữa không?

- Dạ! Còn một đoàn thuyền nữa rất gần chúng ta. Do vọng hải đài ở Bến Nghé trình báo. Là thuyền của giặc Nguỵ. Họ cách ta chỉ khoảng mười hải lý về phía Đông Bắc. Theo tốc độ di chuyển thì chưa tới nửa canh giờ nữa, họ sẽ đến đây.

- Tốt... Tốt... Tốt... Cuối cùng thì Thái tử đã không đoán sai.

Ông nói liền ba tiếng tốt trong sự ngạc nhiên của anh lính. Đoạn, ông hạ lệnh:

- Báo với các lộ quân, hãy cố gắng cầm cự thêm nửa canh giờ nữa. Ta sống rồi.

- Tuân lệnh!

- Báo!

Lúc này lai có một anh lính khác chạy vào:

- Báo! Có một lộ binh mã của giặc Nguỵ đang tiến nhanh về thành theo hướng Bắc theo ngã Biên Hoà.

Lúc này, Đức hướng về Hoàng thành, nơi có ngôi mộ mới đắp của Nguyễn Phúc Cảnh, nước mắt như mưa mà quỳ bái:

- Thái tử! Ngài đoán và sắp đặt mọi thứ như thần. Bề tôi phục rồi.

Đoạn ông lại đứng lên và hạ lệnh:

- Tất cả đều nằm trong suy đoán của Thái tử. Truyền lệnh của ta, mở rộng cổng thành, không chống cự và mời vị tướng quân thống lãnh của họ đến đây gặp ta.

- Tuân lệnh!

Anh lính mặc dù vô cùng khó hiểu, song khi nghe nói đó là sắp đặt của Thái tử thì lập tức thi hành, không cần hỏi lại.

Trên soái hạm của quân đội Phú Lang Sa, Chuẩn Đô đốc theo dõi tình hình chiến sự. Ông ta chắc mẫm lần này mình sẽ thu được toàn thắng. Đúng lúc này, người lính hoa tiêu trên cột buồm chính nói vọng xuống:

- Chuẩn Đô đốc! Hướng năm giờ có địch, cách ta năm hải lý.

- Cái gì? Quân số của chúng là bao nhiêu?

- Không rõ. Có khói bốc lên cao che mờ tầm nhìn.

- Ha… ha… Vậy thì rõ rồi, không cần quá quan tâm. Chắc là đoàn tàn quân trong trận đại chiến ở miền Trung nước này đang tháo chạy về đây.

Trung tá Daniel Rolande suy nghĩ rồi nói:

- Chuẩn Đô đốc, không đúng. Nếu là đám tàn quân, chúng sẽ phải xuất hiện ở hướng ba giờ chứ không phải là năm giờ.

- Ý anh là sao?

- Có thể là một nhánh quân mai phục trước đó chúng bố trí.

- Thế sao trên thuyền lại có lửa cháy?

- Chúng đánh lạc hướng ta thôi.

- Trung tá này! Anh nghĩ thử xem, nếu là phục binh thì không thể chờ tới giờ phút này chúng mới đến đây tham chiến. Mười phần hết tám chín chúng chỉ là đám tàn quân. Có lẽ trong lúc trốn chạy đã lạc đường ngoài biển thôi.

Bình thường, Jannier là một người hết sức cẩn trọng và lão luyện trong chiến đấu. Thế mà giờ đây, mãi ngủ quên trên chiến thắng sắp tới trước mắt, ông ta đã quá xem thường cánh quân này. Tuy vậy, để tỏ ra mình là một người hiểu biết, ông ta dặn dò hoa tiêu báo cáo tình hình của đoàn thuền này cứ mỗi dặm tiến tới một lần.

Người hoa tiêu tiếp tục theo dõi tình hình và thông báo cự ly tiếp cận. “Còn bốn hải lý… Còn ba hải lý… Còn hai hải lý”. Khoảng cách về thời gian báo cáo cũng không đều nhau. Mỗi lần báo cáo lại lâu hơn lần trước. Có vẻ như tốc độ của đoàn thuyền nọ chậm dần lại. Jannier hất hàm nói với người phụ tá:

- Trung tá, anh thấy chưa? Tốc độ của chúng đang giảm lại. Chắc là chúng không ngờ ta đang tấn công ở đây nên không dám tiến tới nhanh hơn, nếu như tôi không sai thì chúng sẽ dừng lại cách chúng ta một hải lý.

- Hy vọng là vậy. Tôi cũng tin vào phán đoán của Chuẩn Đô đốc.

- Thôi, quay lại trận đánh nào. Anh hãy truyền tin cho các thuyền chở lính nhanh chóng áp sát và đổ bộ lên bờ.

Lệnh đổ bộ được thực thi. Nhân lúc hai bên đang giao chiến, các con thuyền chở lính đang tiến hành tiếp cận vùng biển Cần Giờ. Sau một lúc, cuối cùng cũng đã có ba trong số hai mươi chiếc đổ bộ thành công với một nghìn năm trăm lính. Bọn họ nhanh chóng ổn định đội ngũ rồi tiến nhanh về hướng cảng Bến Nghé với mục đích vô hiệu hóa các khẩu đại bác trên bờ.

Cùng lúc này, đoàn quân Tây Sơn đã đến được cổng thành. Lẽ dĩ nhiên đây chính là quân đoàn ba và người thống lãnh là vị Trung tướng trẻ Đặng Văn Phi. Anh vô cùng ngạc nhiên khi không hề thấy sự chống cự. Ngược lại, cổng thành lại rộng mở. Có một người chạy nhanh đến, cho biết có lời muốn nói với anh.

- Xin hỏi, Ngài có phải là tướng thống lĩnh của cánh quân này?

- Đúng vậy? Ông là…

- Tôi là Hiệu úy Cấm vệ quân Dương Đình Bảng. Được lệnh của Tham tri đại nhân Trịnh Hoài Đức, tôi cho mở cổng thành đón cánh quân của ngài. Cùng với mời Ngài quá bộ đến cảng Bến Nghé gặp đại nhân. Dĩ nhiên, xin ngài hãy dẫn theo cánh quân của mình.

- Tại sao ông ta không đích thân đến đây? Nên nhớ chúng ta đang ở hai đầu chiến tuyến.

- Tôi cũng không hiểu. Có điều, đây là lệnh buộc tôi phải thi hành. Vả lại… vả lại đại nhân còn phải lo đốc thúc binh sĩ chống lại người Phú Lang Sa. Đại nhân nói, mong ngài hãy đến sớm, mọi việc đại nhân sẽ giúp ngài tỏ tường, tình hình lúc này đang rất nghiêm trọng.

Văn Phi lúc này nhớ lại lời của Bộ trưởng Nguyễn Quang Huy trong công hàm: “Tướng quân không cần hỗ trợ bao vây đèo Cù Mông. Hãy một đường tiến về Gia Định, sẽ không có quá nhiều trở ngại cho anh đâu. Đến thành, có lẽ người Phú Lang Sa đã phát động công kích. Chúng ta dù thuộc bên nào cũng là người Việt. Hãy đưa quân hỗ trợ quét sạch giặc Phú Lang Sa và cho người tiếp quản thành. Đừng thắc mắc, đến nơi tướng quân sẽ hiểu”.

Quả vậy, trên đường đến đây, Quân đoàn ba gặp rất ít chống cự. Mọi việc diễn ra thuận lợi hơn mức bình thường. Giờ phút này, tình hình lại đúng như lời Huy nói, người Phú Lang Sa đã tấn công. Lời nói trong công hàm cũng thật đánh thẳng vào anh lòng yêu thương đồng bào. Đúng vậy, dù gì mỗi người cũng vẫn mang trong mình dòng máu Tiên Rồng, là người Việt, là đồng bào. Anh không thể nào trơ mắt đứng nhìn người ngoài xâm chiếm non sông. Anh cho quân tiến qua cổng thành và di chuyển thật nhanh về cảng Bến Nghé.

Ra đón Văn Phi là một vị quan văn, tóc tai rũ rượi nhưng ánh mắt lại hết sức tinh anh. Còn ai khác ngoài Hộ bộ Tham tri Trịnh Hoài Đức nữa. Ông ta nhanh chóng tiến đến nói chuyện với Văn Phi:

- Tôi là Trịnh Hoài Đức. Xin hỏi, phải xưng hộ thế nào với tướng quân?

- Trung tướng, Thống lãnh Quân đoàn ba Đặng Văn Phi. Đại nhân cứ gọi thẳng tên tôi là được, dù gì thì ngài cũng đáng tuổi cha chú tôi.

- Được lắm, Văn Phi à. Quả là người ta đồn đại không sai khi nói các tướng lãnh miền Bắc rất dễ gần. Cũng nói luôn cho anh hiểu. Không biết là vì sao Duệ Thái tử mà nói đúng hơn là Cố Thái tử bảo chúng tôi không cần chống cự các anh. Và chính các cũng sẽ giúp chúng tôi chống lại người Phú Lang Sa. Tình hình giữa hai miền giờ này chắc anh cũng quá hiểu chiến thắng sẽ về tay ai nên cũng không cần phải quá suy nghĩ. Có lẽ chính Thái tử bằng cách nào đó đã liên lạc với vua của anh. Nhờ thế mà chúng ta mới có thể gặp nhau ở đây.

- Có lẽ vậy. Nhưng mà khoan đã… Đại nhân nói Cố Thái tử. Lẽ nào chính là Thái tử cảnh và ông ta đã qua đời?

- Vâng. Chính xác là như vậy. Thái tử còn lưu lại một bức di thư, bảo tôi đưa lại cho người thống lĩnh cao nhất của các ngài. Nó ở đây.

- Đại nhân đừng đưa cho tôi. Có một người còn quan trọng và cao cấp hơn tôi. Có lẽ người ấy đã tới nhưng lại đang ở ngoài kia.

Văn Phi chỉ tay về phía biển. Trịnh Hoài Đức giật mình.

- Còn quan trọng và cao cấp hơn anh. Chẳng lẽ là một vị Tổng thống lãnh nào đó, một trong Tây Sơn thất hổ Đại Đô đốc Vũ Văn Dũng chăng?

- Không phải. Người này còn cao hơn Thượng tướng quân Dũng nữa. Anh ta chính là Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn, anh ruột của Hoàng thượng chúng tôi.

- Quả thật đây là tin bất ngờ. Chính Thái tử nhiều lần nhắc đến anh ta. Ngài nói, đã ba lần họ chạm trán cả chính thức lẫn không chính thức ở Châu Âu nhưng bao giờ Ngài ấy cũng thua. Chinh Tây Vương là một trong những người ngài ấy nể trọng nhất.

- Có điều ngài không biết. Chính Chinh Tây Vương cũng vô cùng bội phục Cố Thái tử. Thôi, chúng ta vào việc chính ngay thôi. Đại nhân có thể cho tôi biết tình hình đại khái hay không?

Trịnh Hoài Đức nhanh chóng tóm tắt tình hình cho Văn Phi. Lúc này, toàn bộ số thuyền chở lính của Phú Lang Sa đã đổ bộ thành công lên biển Cần Giờ. Mười nghìn binh sĩ nhanh chóng di chuyển nhanh đến cảng Bến Nghé. Bọn họ cũng gặp phải chống cự nhưng tất cả cũng chỉ như muỗi đốt. Các chốt phòng thủ nhanh chóng bị đánh tan. Việc này cũng được các thám báo phía Việt Nam nắm được và truyền lại cho Trịnh Hoài Đức. Lúc này, Văn Phi nói:

- Đại nhân. Ông hãy tập trung toàn bộ người của mình về phòng thủ ở cảng, ngừa trường hợp tàu chiến của chúng tiếp cận. Nên nhớ, mỗi thủy thủ cũng chính là một người lính được huấn luyện kỹ càng. Phần chúng tôi, cánh quân đổ bộ kia sẽ chính là miếng mồi của mình.

- Tốt lắm, thật cảm ơn các anh rất nhiều.

- Không có gì. Đây chính là phận sự của một người lính đối với Giang sơn thôi.

Quay lại với trận đánh trên biển. Số lượng chiến thuyền của Việt Nam chỉ còn hơn ba mươi chiếc. Cùng lúc đó, đoàn thuyền lạ cũng tiến sát vào. Khác với dự đoán của Chuẩn Đô đốc Jannier, họ khi còn cách người Phú Lang Sa một hải lý thì không những không dừng lại mà còn tiến vào. Đến khoảng cách chừng một ký lô mét mới dừng hẳn.

- Trung tá, anh thấy sao? Tôi dự đoán cũng không sai mấy chứ hả? – Jannier cười sảng khoái với Rolande.

- Vâng. Tôi quả thật là quá lo xa rồi.

Cả hai cùng cười lớn. Nhưng cũng vào chính lúc này, họ nghe thấy những tiếng rít trên không trung. Rất nhiều vật thể lạ đang bay tới.

- Rocket… Trời ơi… Chính là Rocket – Jannier bỗng phát hoảng.

- Chuẩn Đô đốc! Ngài nói sao? Vậy chúng là ai?

- Quân miền Bắc nước này, đồng minh với người Anh. Thôi chết, chúng ta không kịp tránh rồi.
Quả vậy, chiếc soái hạm đứng ngoài trận đánh để quan sát lại là nạn nhân của những quả tên lửa trước tiên. Hơn hai mươi quả rơi xuống trên boong thuyền. hàng loạt tiếng nổ lớn đinh tai vang lên. Chiếc soái hạm chìm trong biển lửa. Tiếng la hét lúc này không còn là những người Việt nữa mà lại là người Phú Lang Sa. Người trên đó cũng không kịp ra hiệu lệnh cho các chiến thuyền khác phòng bị. Bởi lẽ, cả Chuẩn Đô đốc cùng phụ tá của ông ta bị một quả tên lửa trực tiếp rơi trúng và chết thảm.

Chiếc soái hạm bốc cháy và chìm dần vào lòng biển phút chốc làm cho cả trận đánh dừng lại. Tất cả mọi người trên biển lẫn trên bộ đều ngây người như phỗng. Không ai nghĩ đến, chiếc soái hạm đứng bên ngoài xem chừng như rất an toàn, không, phải nói là an toàn nhất, lại bị tập kích và phá hủy trước tiên.

Lại một loạt tên lửa nữa lao tới. Lần này là hàng mấy trăm quả với mục tiêu là những chiếc chiến thuyền ở vòng ngoài. Lại có những chiến thuyền bốc cháy. Một vài chiếc của Việt Nam bị kẹp giữa hai dòng thuyền của người Phú Lang Sa cũng vô tình trúng phải, bốc cháy. Song, điều đó cũng vẫn không cản được sự phấn khích của những người Việt. Họ reo hò và nhanh chóng nạp đạn bắn phụ trợ.

Lúc này, họ mới thấy bóng dáng của người mới đến. những chiếc Định Quốc dẫn đầu đoàn thuyền hàng trăm chiếc đang tiến lại gần. Có tiếng loa tay phát ra từ trên chiếc soái hạm mang tên Vinh Quang: “Các bạn Việt Nam, hãy nhanh chóng rời vị trí và bao vây bên ngoài, để đó cho chúng tôi”.

Những người tham chiến ngay từ đầu lúc này dường như bị giải thoát, họ nhanh chóng rời khỏi tầm bắn của đại bác nhà Tây Sơn. Họ quá hiểu, mình lúc này đã hoàn thành nhiệm vụ mà Thái tử trước khi mất đã bố trí. Thật lòng mà nói, với những người lính, họ chẳng mấy quan tâm người miền nào, chỉ biết người ra lệnh cho mình là ai và ai là địch nhân trước mắt.

Lại có tiếng loa từ chiếc Vinh Quang, lần này người nói lại chính là Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn: “Phụng khẩu dụ của Hoàng thương, nhấn chìm toàn bộ chiến thuyền và binh lính Phú Lang Sa xuống biển. Chúng ta không lưu giữ hàng binh”. Tiếng reo hò vang dội, đầy khí phách vang lên tung trời. Tiếng trống trận dồn dập. Sau đó là hàng loạt tiếng nổ vang rền từ hàng trăm khẩu đại bác. Từng chiếc, lại từng chiếc chiến thuyền đầy kiêu hãnh của người Phú Lang Sa lúc trước vẫn còn ung dung hành hạ địch thủ giờ đây đồng loạt bốc cháy và chìm dần xuống đáy biển. Những người rơi xuống biển tưởng chừng có thể thoát thân nào ngờ cũng bị bắn giết từ những viên đạn súng TSG của binh sĩ trên các chiến thuyền Tây Sơn. Đoàn hải thuyền đã biến mất hoàn toàn như chưa từng tồn tại.

Cùng lúc đó, Quân đoàn ba do Đặng Văn Phi cũng nhanh chóng đối đầu với mười nghìn lính viễn chinh. Đầu tiên là những loạt tên lửa và đại bác từ trên lưng voi nhấn chìm bọn họ trong chết chóc và hoảng loạn. Sau đó, với lợi thế của súng TSG với tầm bắn hơn tám trăm mét, hiệu quả trong tầm bắn năm trăm mét, sáu tiểu đoàn kỵ binh nhanh chóng chia cắt đoàn quân Phú Lang Sa thành nhiều mảnh nhỏ. Tiếp theo sau là từng hàng lính bộ binh tiến lên bắn giết không chút tiếc thương. Phải nói rằng, sức mạnh của Quân đoàn ba lúc này chính là cơn ác mộng của người Phú Lang Sa. Mỗi người lính Tây Sơn như là một tử thần, sẵn sàng gặt hái tính mạng của đối phương. Kết quả, cũng như Hạm đội ba, đoàn quân của Văn Phi cũng không cho một người nào có khả năng sống hay chạy thoát. Tất cả mười nghìn người Phú Lang Sa đều tử trận.

Trận chiến đến đây là kết thúc. Văn Phi đem Quân đoàn ba quay trở lại thành Gia Định. Cùng lúc đó, Quang Bàn cùng những người lính của mình cũng cập cảng Bến Nghé. Rất nhanh sau đó, mọi người gặp nhau trong Hoàng cung đặt trong thành.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu
Chương 52: Ngã ngũ
Chương 52: Ngã ngũ

Sau trận chiến ngoài cảng, Bàn cùng Văn Phi và Đô đốc Hạm đội ba Trần Trung theo Trịnh Hoài Đức vào cung. Địa điểm đầu tiên Bàn muốn đến chính là ngôi mộ của cố Thái t.ử Nguyễn Phúc Cảnh. Đương thời, Cảnh tuy còn ít tuổi nhưng lại là một trong số ít nhũng người Bàn nể phục nhất. Có lẽ, trên toàn cõi đất Việt, chỉ có ba người hiểu rõ con người Nguyễn Phúc Cảnh nhất, đó là Toản, Đức và còn lại là chính anh. Thắp lên một nén hương, Bàn lầm rầm khấn bái:

“Duệ Thái t.ử Nguyễn Phúc Cảnh. Cho phép tôi gọi anh là “cậu” để tỏ vẻ thân tình. Chúng ta gặp nhau không nhiều, nói thật cũng chỉ có ba lần ở trời Tây. Nhưng, phải đã t.ừng sống ở Châu Âu, phải t.ừng chiến đấu ở Châu Âu mới có thể hiểu được tài năng quân sự và tầm nhìn của mình còn rất hạn hẹp. Tôi cũng vậy mà cậu cũng vậy. Chúng ta đi đâu cũng đứng ở hai đầu chiến tuyến. Ở quê nhà, tôi với cậu người Nam kẻ Bắc. Ở xứ người, chúng ta phục vụ cho hai đất nước hùng mạnh nhất. Tôi may mắn hơn cậu ít chút, nhờ mối quan hệ tốt đẹp mà có cơ hội đứng cạnh vị Đại tá, không, giờ đây anh ta đã là một vị tướng tài năng lỗi lạc, Arthur Wellesley. Còn cậu, dù hết sức vất vả nhưng vẫn nhận được sự quý trọng của một thiên tài quân sự đương thời, tướng Napoleon Bonaparte. Bấy nhiêu đó cũng đủ hiểu, dù ít tuổi hơn nhưng cậu vẫn tài giỏi hơn tôi nhiều lắm.

Số phận buộc chúng ta đứng ở hai đầu chiến tuyến. Cậu biết không, với cậu, tôi có hai suy nghĩ hết sức mâu thuẫn. Thứ nhất là hết sức muốn cùng cậu kết giao, là bạn bè của nhau. Thứ nhì thì ngược lại, tôi muốn cùng cậu thư hùng trên chiến trường, một trận thư hùng thật sự. Nói thế cũng có lý do. Sống ở đời, người ta cần có một người bạn tâm giao, lại cần có một đối thủ đích thật. Trớ trêu thay, chính cậu lại có cả “hai con người đó” trong tim tôi.

Giờ đây, sau biến cố vừa qua, có lẽ chiến tranh giữa hai miền sẽ khép lại. Chúng ta đã không còn đứng ở hai đầu chiến tuyến nữa. Thôi thì t.ừ bây giờ, chúng ta xem như là bạn nhé. Mỗi năm chúng ta se lại gặp nhau. Ước mơ đất nước hùng cường của cậu, hãy để cho tôi gánh vác. Yên nghỉ nhé, bạn của tôi”.

Đoạn, Bàn vái lạy ba cái rồi đứng lên. Trịnh Hoài Đức ở bên cạnh cũng bất giác cảm thấy mến mộ vị Vương gia trẻ tuổi của nhà Tây Sơn này. “Có lẽ, họ là những thiên tài thật sự. Chỉ những thiên tài mới hiểu được thiên tài. Dù chỉ qua vài ba lần gặp gỡ hay đối đầu, họ vẫn có thể trở thành bạn tri âm”, ông thầm nghĩ. Như nhớ lại điều gì, Trịnh Hoài Đức vội nói với Bàn:

- Vương gia! Trước lúc mất, Thái t.ử có để lại một bức thư. Ngài bảo giao cho tướng quân có địa vị cao nhất, nhờ chuyển tận tay nhà vua của các vị.

- Thế à? Vậy tôi sẽ nhận và trao tận tay Quang Toản.

- Thôi, mời Vương gia và hai vị tướng quân đây vào nhà khách, chúng ta sẽ nói chuyện.

Trở về nhà khách, mọi người phân chủ khách rồi ngồi xuống. Khi câu chuyện chưa kịp bắt đầu thì có một người lính Tây Sơn tìm đến:

- Bẩm báo Vương gia! Ty chức có việc cần báo.

- Có việc gì, ngươi nói!

Người lính nói nhỏ vào tai Bàn điều gì đó rồi lui lại chờ lệnh. Bàn suy nghĩ một hồi, lại bảo:

- Ngươi đem bọn họ vào đây.

- Tuân lệnh!

Đoạn, anh quay sang nói với Trịnh Hoài Đức:

- Đại nhân. Tôi có một món quà muốn gửi đến cho các ngài. Lát nữa người của tôi sẽ mang đến.

Cũng vào lúc này, nhà khách đón thêm hai vị. Đó là các ông Lê Quang Định và Hoàng Minh Khánh. Đức đứng lên giới thiệu:

- Để tôi giới thiệu, đây là Lê Quang Định và Hoàng Minh Khánh. Cả ba chúng tôi thuộc nhóm thập nhị tân tú thành Gia Định và được Hoàng thượng giao cho chức quan "Điền Tuấn" trông coi mọi sự vụ lớn nhỏ trong cả nước.

- Để tiện bề làm việc – Bàn nói – ta cũng giới thiệu cho mọi người. Đây là Trung tướng Đặng Văn Phi, t.ư lệnh Quân đoàn ba, chắc mọi người cũng đã biết. Còn đây là Đô đốc Trần Trung, t.ư lệnh Hạm đội ba của chúng tôi.

- Khoan đã – Đức nói xen vào. – Không phải khi nãy Văn Phi Tướng quân giới thiệu mình là Thống lãnh sao? Vậy còn chức t.ư lệnh là thế nào?

- t.ư lệnh là vị trí chỉ huy tối cao của một quân đoàn. Nó cũng tương đương với Thống lãnh hay Nguyên soái. Khi nãy, do không có nhiều thời gian giải thích, tôi nói mình là Thống lãnh cho đại nhân dễ hiểu – Văn Phi nói.

- Ra là thế. À, tên của anh là Đặng Văn Phi. Vậy anh có quan hệ gì với Đô đốc Đặng Văn Long không?

- Thượng tướng quân Đặng Văn Long là cha tôi.

Lúc này, có một người chạy vào:

- Bẩm báo Vương gia. Người đã được đưa đến. Và ngoài ra, còn có Phó t.ư lệnh Quân đoàn hai, Chuẩn tướng, Bình An Hầu Nguyễn Văn Bảo đến gặp.

- Anh ta cũng đến ư? Mau mời vào.

Nguyễn Văn Bảo là ai mà Bàn phải gọi là anh? Hóa ra, Bảo không phải ai khác mà là con của Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc. Nhớ năm xưa, khi Nguyễn Ánh kéo quân vào đánh Quy Nhơn với trận đại chiến trên đầm Thị Nại, Nguyễn Văn Bảo hay còn gọi là Nguyễn Bảo vì tị hiềm mà không cầu viện Phú Xuân. Anh ta còn chống đối Quang Toản mấy bận, lại còn từng cầu viện Nguyễn Ánh. Sau cái chết của cha, anh đã từng rất phẫn hận, thề một mai sẽ giết chết Toản. Nếu như không có sự xuất hiện của Toản hay chính xác hơn là David Ho làm thay đổi dòng chảy lịch sử, Bảo đã bị chính vua Cảnh Thịnh sai Trần Quang Diệu dìm nước đến chết.

Quang Toản lúc này không còn phải là vị vua trong lịch sử, nghĩ đến tình máu mủ và cũng vì muốn tận dụng tài năng của Bảo, anh khi đó đã tha chết. Không những thế, Toản lại giao anh ta cho Trần Quang Diệu lúc đó còn là Đô đốc dạy dỗ. Qua mấy năm thời gian, cùng với sự tận tâm dạy dỗ của vị chiến tướng tài ba cùng sự khoan hồng và lòng yêu mến của Toản, Bảo đã dần thay đổi định kiến của mình. Anh cũng không còn hận dòng thứ của vua Quang Trung nữa. Anh nhanh chóng chứng tỏ được thực tài của mình khi cùng thầy chinh chiến bảo vệ bờ cõi. Nổi bật nhất là việc anh cùng Đô đốc Lộc tiến lên bình định Thượng Lào và dẹp yên biên giới Miến Điện. Vì mến tài và cũng không có con trai, chính nữ tướng Bùi Thị Xuân khuyên chồng nhận Bảo làm nghĩa tử.

Sự trưởng thành của Bảo làm ba anh em Toản không còn cảm thấy bất an và ghét bỏ người anh họ này nữa. Ngược lại, ba anh em còn tỏ ra yêu mến và coi trọng Bảo hơn xưa không biết nhiều hơn bao nhiêu mà kể. Và cũng chính vì điều này mà Nguyễn Bảo đã triệt để thay đổi suy nghĩ của mình. Martin Luther King, một nhà hoạt động vì nhân quyền nổi tiếng khoảng nửa đầu thế kỷ hai mươi có một câu nói rất nổi tiếng: “Yêu thương là sức mạnh duy nhất có thể biến kẻ thù thành bạn”. Câu nói này có lẽ chính xác hoàn toàn với trường hợp của Bảo. Thời gian qua mau, Bảo dần được cất nhắc lên vị trí Phó t.ư lệnh Quân đoàn hai và tước Bình An Hầu. Từ cách nay hai năm, Toản còn cho Bảo theo học cùng Phan Huy Ích. Anh nhận thấy người anh họ của mình ngoài tố chất về quân sự còn có thiên phú về ngoại giao. Toản muốn Bảo phát huy tài năng này của anh. Toản muốn Bảo sẽ là người tiếp theo Bàn xây dựng mối quan hệ bang giao với các nước khác sau này.

Quay trở lại với câu chuyện của chúng ta. Nguyễn Bảo bước vào cùng với bốn người khác, trong đó, hai người là lính Tây Sơn, còn lại chính là Vannier và Dayot, hai sĩ quan đánh thuê Phú Lang Sa phục vụ trong quân Việt Nam.

- Anh hai, chẳng phải anh đang ở đèo Cù Mông sao? Chẳng lẽ…

- Đúng vậy, chiến sự đã kết thúc. Anh đã mang theo thư tín của chú hai, Tổng t.ư lệnh tạm quyền của hỗn hợp ba quân đoàn đến cho chú. Sự tình thế nào thì anh sẽ nói sau. Trước mắt là xử lý hai tên này.

Tuy rằng nhà Tây Sơn đã đánh tan quân Phú Lang Sa, cứu giang sơn thoát khỏi họa ngoại xâm và biết phe mình đã bị đánh bại nhưng khi thấy đối phương bắt trói hai người có vị trí rất cao trong quân đội của mình, mấy vị quan của nhà Nguyễn cảm thấy thiện cảm của mình với nhà Tây Sơn giảm đi mấy phẩn. Họ thay đổi ngay cái nhìn của mình với những người trước mặt. Sự thay đổi này dù rất nhỏ nhưng làm sao qua khỏi ánh mắt của Bàn. Anh nói:

- Các vị đại nhân. Vừa nãy, tôi có nói sẽ tặng cho các vị một món quà. Thì đây chính là nó.

Mọi người cảm thấy ngạc nhiên vô cùng. “Thật là trơ trẽn, bắt lấy người của ta giao cho ta mà dám nói là quà”, đó chính là suy nghĩ của họ lúc này. Trong số ba người, Lê Quang Định là người nóng tính nhất, ông ta chất vấn ngay:

- Vương gia, các vị cũng thật là khéo. Bắt lấy người của chúng tôi mà còn nói đó là quà. Các vị phải chăng vì là người chiến thắng mà coi khinh chúng tôi sao?

- Đại nhân đừng vội nổi nóng. Hãy nghe người của tôi trình báo rồi định đoạt sau.

Quay sang một trong hai người lính áp giải bại binh, Bàn nói:

- Trung úy, anh nói xem mọi sự thế nào?

- Bẩm Vương gia, Hầu gia, các vị tướng quân cùng ba vị đại nhân đây. Số là hai người này phục vụ trong đoàn thuyền Bắc phạt của nhà Việt Nam. Khi đến vùng biển Phú Yên, không biết sao họ lại quay sang tấn công chính người của mình. Chính tướng quân Nguyễn Văn Thành cũng vì không phòng bị mà dính phải trọng thương. Hạm đội hai chúng thần do Đô đốc Lý Văn Nghĩa chỉ huy vốn ẩn nấp ngoài khơi rất xa với kế hoạch đánh tập hậu khi đối phương vào đến vùng biển Quy Nhơn đã nhìn thấy tất cả. Đô đốc Nghĩa ban đầu dự tính không xen vào, để mặc cho bọn họ đấu đá, hải quân Tây Sơn chúng ta sẽ là người có lợi. Tuy nhiên, một đội thợ lặn đặc công của chúng ta lúc trước tiếp cận và lẻn lên thuyền của phe nổi loạn đã phát hiện một bí mật.

Quay sang hai người bị trói, anh ta chỉ vào họ và nói tiếp:

- Hai tên này vốn là người Phú Lang Sa. Mấy hôm trước, họ nhận được một bức thư do một người có tên là Danniel nào đó. Người này bảo chúng là nước Phú Lang Sa quyết định xâm chiếm Đại Việt chúng ta. Y khuyên bọn chúng hãy quay mũi thuyền, tấn công lại người phương Nam rồi quay về cảng Bến Nghé trợ chiến. Lúc đó, người Phú Lang Sa “nội ứng ngoại hợp" sẽ dễ dàng tiêu diệt hết binh lính của nhà Việt Nam. Trước đó, trận thư hùng ở đèo Cù Mông sẽ lấy đi phần lớn sinh lực của cả hai miền. Người Phú Lang Sa lúc đó chỉ cần mang theo một binh đoàn là đủ để bình định tất cả.

Quay sang chắp tay với ba người nhà Việt Nam, anh Trung úy lại nói:

- Khi nhận được tin thám báo này, Đô đốc Nghĩa nói, “Binh sĩ hai miền dù gì cũng là dòng giống Lạc Hồng, cùng là anh em. Không thể để bè lũ ngoại xâm giết người anh em của mình được”. Nói vậy, Đô đốc lệnh cho Hạm đội ba tấn công, giải cứu cho đoàn thuyền của tướng Nguyễn Văn Thành. Lúc này, do không kịp phòng bị mà hải quân nhà Việt Nam đã tổn thất hơn một nửa. Đám phản loạn với khoảng hai trăm chiến thuyền cùng thủy thủ đoàn là những người nước ngoài với lợi thế bất ngờ đã làm tướng Thành không thể nào xoay sở, chỉ chờ vào thời điểm bị kết liễu. Chúng tôi đã dùng tên lửa mà tấn công chúng từ xa, giải cứu thành công đoàn thuyền của quân miền Nam, hộ tống họ về cảng Cam Ranh để sửa chữa tàu thuyền và trị thương. Đô đốc nghĩa lại sai Hải đội Cá heo truy kích mười bảy chiến thuyền Hải tặc, về đến vùng biển Lagi thì chúng bị bắt. Thần tức tốc mang theo hai tên này đến đây chờ Vương gia định đoạt.

- Thế à? Vậy thì làm sao Đô đốc Nghĩa biết ta sẽ có mặt ở đây?

- Khởi bẩm. Sau khi Vương gia khởi hành ít hôm, Hoàng thượng có viết một bức mật hàm gửi cho Đô đốc. Trong mật hàm, Hoàng thương có nói Vương gia sẽ bí mật vòng qua Hạm đội ba để không ảnh hưởng đến chiến sự. Ngài căn thời gian rất chuẩn xác, khi thám báo ta xác định Hạm đội một do Vương gia chỉ huy đã đến ngoài khơi Bình Thuận thì thư mới tới, và đó cũng chính là thời điểm bọn phản loạn gây nội chiến.

Tới lúc này, ánh mắt trên mặt của những vị quan nhà Việt Nam đã thay đổi. Họ biết ơn quân đội đối phương và tỏ ra căm hận những tên phản loạn trước mặt. “Quả thực, quân đội của họ quá mạnh, quá xuất sắc. Càng đáng sợ hơn, tầm nhìn và chiến lược của vua trẻ tuổi kia lại quá xa và chuẩn xác đến thế. Hỏi sao mà Hoàng thượng của chúng ta lại không thất bại”, Lê Quang Định thầm nghĩ. Lúc này, Bàn lên tiếng cắt đứt dòng suy nghĩ của họ:

- Các vị, đây là món quà mà chúng tôi tặng. Bởi thế, xử trí thế nào là tùy vào các vị.

- Cám ơn Vương gia – Định lên tiếng. – Chúng tôi sẽ giam bọn chúng vào ngục chờ ngày xử tử.

Quay sang Nguyễn Bảo, Bàn nói:

- Việc thứ nhất đã xong. Giờ thì, anh hai, anh có thể nói đến việc của mình chưa?

- Đây là thư của chú hai Thùy. Chú cứ đọc sẽ hiểu.

Đọc bức thư từ tay của Bảo, mắt Bàn sáng lên. Lẽ ra anh sẽ cười lớn. Thế nhưng, anh biết thế là bất nhã. Gấp thư lại, anh nói vắn tắt:

- Ba vị đại nhân. Trong thư, anh tôi nói trận chiến ở đèo Cù Mông đã kết thúc. Nhà Tây Sơn chúng tôi đã dồn ép vua Gia Long cùng binh sĩ của mình về cố thủ ở thành Phú Yên. Qua gần một tháng không có lương thực, nước uống, tinh thần binh sĩ xuống dốc và rệu rã. Anh tôi hạ lệnh công thành cách nay năm ngày và chiến thắng. Quân của các ngài chống cự rất vất vả. Tuy nhiên, vua Gia Long dù sao cũng là người nhân hậu. Ông ta cho sứ giả đến doanh của chúng tôi. Sứ giả nói họ chấp nhận thua cuộc để bảo toàn tính mạng của bá tính trong thành. Sứ giả còn nói vua Gia Long bảo: “Dù gì chúng ta cũng là người một nhà. Kẻ thù lớn nhất vẫn là người phương Bắc và phương Tây. Do đó, cần phải làm hết sức bảo toàn lực lượng cho giang sơn để chống lại ngoại xâm”. Anh tôi sai người vào tiếp quản thành Phú Yên.

- Thế còn Hoàng thượng, các vị tướng quân và binh sĩ thế nào? Họ có bị bắt nhốt lại không? – Trịnh Hoài Đức hỏi gấp.

- Không sao cả. Binh sĩ của các ngài mười vạn, vẫn còn lại hơn bảy vạn. Anh tôi an trí cho họ ở ngoại thành. Họ không bị giam giữ nhưng chỉ bị quản lý, không cho rời khỏi khu vực. Nói chung, so với người thường, họ chỉ bị hạn chế việc đi lại mà thôi, cơm nước vẫn được lo chu toàn. Phần vua Gia Long. Anh tôi cũng không giam giữ mà an trí tại phủ thành Phú Yên, lấy lẽ cao nhất mà đối đãi. Đồng thời, em tôi là vua Cảnh Thịnh cũng đang vào Phú Yên để hội đàm cùng vua Gia Long. Còn nữa, trong vòng mấy ngày nữa, họ sẽ về đến Gia Định.

Ba vị đại nhân cảm thấy như trút đi được một gánh nặng. Họ thở phào nhẹ nhõm. Ít ra, nhà vua cũng không bị xỉ nhục. Và hơn thế nữa, vua Tây Sơn còn vào tận Phú Yên để hội đàm. Có lẽ nội dung cuộc hội đàm này sẽ mang tính chất ôn hòa hơn. Hai vị vua hẳn là sẽ có một đối sách phù hợp để thống nhất đất nước trong an bình và không có biến động gì lớn, có hại cho giang sơn.

Cuối cùng thì cuộc nội chiến kéo dài mấy mươi năm cũng đã đến hồi kết thúc với chiến thắng cuối cùng có lẽ thuộc về nhà Tây Sơn. Nói là có lẽ là bởi vì còn đó một cuộc hội đàm ở cấp cao nhất của cả hai miền. Cuộc nói chuyện của hai nhà vua sẽ mở ra một con đường xán lạn cho giang sơn hay lại vùi dập tất cả trong thù hận và biển máu? Chưa ai biết trước được. Tất cả còn phải chờ ngày mà họ về đến thành Gia Định.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 53: Hội đàm
Chương 53: Hội đàm

Thành Phú Yên, hai ngày trước.

Nguyễn Phúc Ánh bị đánh thức bởi tiếng đàn dặt dìu phát ra từ khu vườn râm mát phía sau căn phòng mình đang ngủ. Ngoài kia, mặt trời đã lên cao.

“Mấy giờ rồi nhỉ?” – Nguyễn Phúc Ánh ngồi dậy, xoa xoa mắt. Phải nói đêm hôm qua chính là đêm ông ngủ ngon nhất mấy năm gần đây, không, phải nói đúng hơn là mấy mươi năm gần đây mới phải. Cuộc đời ông đến tận hôm nay chưa từng có một ngày bình yên. Nếu không phải ngày đêm lo việc quốc sự thì cũng là phiêu bạt nơi trời Tây hay chạy trốn kẻ thù. Ông đã cảm thấy quá mệt mỏi.

Làm xong vệ sinh cá nhân, ông thong thả dạo bước ra vườn. Tiếng chim hót líu lo như lay động mọi giác quan. Cảnh vật thật yên bình. Ôi! Sao ông yêu đến thế những khoảnh khắc bình yên này. Kể ra nhà Tây Sơn đối xử với ông cũng không đến nỗi tệ. Nguyễn Ánh sau ngày buông tay không bị nhốt vào lao ngục hay một nơi nào khắc nghiệt. Ngược lại, nơi ông đang ở là một căn nhà rộng rãi, nói đúng hơn thì đây chính là một biệt viện nghĩ dưỡng với một tòa nhà một tầng với hai mươi lăm căn phòng ngủ. Nơi đây vốn chính là nơi nghỉ dưỡng của các Chúa Nguyễn, ông bà của Ánh thuở đất nước còn chìm trong thế cuộc Trịnh – Nguyễn phân tranh. Phía sau nhà là một cái hồ cá rộng lớn đặt giữa một khu vườn râm mát.

Tiếng đàn réo rắt vẫn còn ngân vang, đủ sức xoa dịu những tâm hồn mêt mỏi, chán chường với cuộc sống đấu tranh mỗi ngày. Hòa cùng với nó là tiếng sáo cao vút. Rõ ràng có một sự phối hợp rất ăn ý giữa hai người với hai món nhạc cụ khác nhau. Nếu tiếng đàn dập dìu có sức xoa dịu tổn thương tâm hồn thì tiếng sáo cao vút kia lại thể hiện một ước mơ, một hy vọng vào ngày mai tươi sáng hơn.

“Ai có thể ở đây lúc này và cùng song tấu một khúc nhạc hay đến thế?” – Trong lòng Ánh nghĩ thầm. Thật ra, ông đã có cho mình một đáp án, chỉ là ông vẫn còn ngờ ngợ. Cuối cùng thì ông cũng đã đến được nơi cần đến. Trước mặt ông là một cái hồ cá với những cây hoa súng nở rộ. Phía trên, những nhành dương liễu rũ xuống, làm dịu đi cái nóng vốn rất oi bức ở mảnh đất miền Trung cát cháy này. Bên hồ là một đôi thanh niên nam nữ thoạt nhìn còn rất trẻ, độ tuổi áng chừng mười tám, đôi mươi. Người nữ mỉm cười, lướt đôi tay ngọc gãy lên khúc nhạc du dương với chiếc đàn tranh. Người nam với dáng đứng tiêu sái, đôi mắt lim dim, thả hồn vào điệu sáo thanh tao.

Nguyễn Ánh cũng đứng lại. Đôi mắt ông khép lại, thưởng thức điệu nhạc tuyệt mỹ này. Bất giác, ông nhoẻn miệng cười, ngâm lên một khúc thơ:

Tiếng đàn theo gió bay xa
Giục người quân tử nơi xa tìm về
Hòa cùng tiếng sáo đê mê
Mang theo mộng đẹp nhìn về tương lai

Đôi thanh niên nam nữ thoáng ngừng trong giây lát rồi lại tiếp tục song tấu một khúc nhạc khác, thanh âm vui tươi, trong sáng hơn. Lúc này, tiếng sáo như chuyển tải hình ảnh một người anh hùng xông pha trận mạc, tiết tấu nhanh, mạnh mẽ. Trong khi đó, người con gái thả vào lòng người một giai điệu ngọt ngào như tâm tình người vợ nơi quê nhà đêm ngày mong ngóng bóng dáng tình quân. Nghe một lúc, Ánh lại ngâm lên một khúc thơ khác:

Trai anh hùng chí tại bốn phương
Vung gươm ngang dọc chốn sa trường
Đập tan giặc giã, hận chiến tranh
Xây đắp giang sơn, sống an lành
Xa nơi tiền tuyến người có hiểu
Vợ hiền, con nhỏ, nhớ bao nhiêu
Một lòng ngóng trông ngày đoàn tụ
Buông bỏ gươm đao, thú thanh nhàn

- Thật hay cho câu “Một lòng ngóng trông ngày đoàn tụ – Buông bỏ gươm đao, thú thanh nhàn”. Gia Long, ngài dậy rồi à?

- Ta dậy rồi. Nếu ta không lầm thì ngài đây là Tây Sơn Cảnh Thịnh, còn đây là...

- Chính thị tôi là Cảnh Thịnh. Còn đây là tiện nội, Đoàn Thị Ngọc Lan.

- Ra là vậy. Hai vị quả là trai tài gái sắc. Ánh tôi khâm phục.

- Ngài nói quá. À, mấy hôm nay ngài có gì không hài lòng không?

- À không. Mọi việc rất tốt. Ta không nghỉ tới các ngài lại không đem chúng ta nhốt lại.

- Nhốt lại? Tại sao phải nhốt lại? Ngục tù vốn chỉ dành cho tội phạm. Các ngài đã phạm tội gì? Mong muốn Giang sơn thống nhất là có tội chăng?

Nghe xong câu nói của Toản, Ánh hết sức ngạc nhiên. "Như thế nào mà y nói như vậy? Có phải là y đang cố tình đánh lừa ta? Nhưng xem nét mặt thì không giống như là giả tạo", Ánh suy tính trong lòng. Đang định hỏi lại, Toản đã cướp lời nói trước:

- Khoan đã. Bây giờ chưa phải lúc chúng ta nói chuyện này. Ngài mới ngủ dậy, chưa dùng bữa sáng đúng không? Chúng tôi cũng vậy. Vậy thì ba người chúng ta cùng nhau dùng điểm tâm đã.

- Vậy thì, mời. Ta cũng rất vui khi nói chuyện với ngài.

Bữa điểm tâm đơn sơ được dọn lên với món bánh tráng cuộn cá nục hấp cùng với trà sen thơm lừng. Đây cũng là một trong những món ăn yêu thích của người dân biển miền Trung. Món ăn tuy có đơn sơ nhưng lại thấm đượm bản chất người dân nghèo miền biển cát cháy và giông bão triền miên.

Sau bữa sáng, ba người quay lại hồ cá, nơi cây đàn tranh vẫn còn nằm yên trên chiếc bàn nhỏ. Có khác chăng là có thêm một chiếc bàn trà đơn sơ. Toản và Ánh ngồi đối diện nhau bên bàn trà. Phần Ngọc Lan, cô ngồi xuống bên cây đàn tranh của mình, gảy lên một khúc nhạc nhẹ nhàng mà sâu lắng.

Ánh khẽ liếc nhìn Ngọc Lan với vẻ ái ngại. Ông dù là người có t.ư tưởng khá tiến bộ nhưng văn hoá Nho gia cũng đã ăn sâu vào máu. Bàn việc đại sự quốc gia lại có một nữ tử bên cạnh, với ông là một điều khó chấp nhận được. Hiểu được điều này, Toản nhìn vào ông và nói với vẻ đỉnh đạc:

- Gia Long Bệ hạ! Xin ngài cứ yên tâm. Nàng sẽ không tham dự vào cuộc nói chuyện giữa hai ta. Thú thật với ngài, tôi là người tôn trọng văn hoá dân tộc nhưng cũng không đến mức quá bảo thủ. Nữ tử thì sao? Vẫn còn đó những bậc anh thư như Bà Trưng, Bà Triệu hay Ỷ Lan Nguyên Phi. Hon là nữ tử nhưng cũng có chính kiến của mình. Có đôi khi, nữ tử còn có những cái nhìn sâu sắc, thấu tình đạt lý và những ý kiến còn xuất sắc hơn nam nhân. Dù vậy, tôi rất tôn trọng ngài nên không cho nàng can dự vào buổi đàm luận của chúng ta. Nàng chỉ ngồi đó gảy lên vài khúc nhạc. Đôi khi, trong những lúc chúng ta cảm thấy căng thẳng, tiếng đàn lại giúp xoa dịu tinh thần, giữa ngài và tôi sẽ dễ dàng thông cảm cho nhau hơn.

- Ngài đã nói thế thì ta cũng chấp nhận vậy. Quả thực, đôi lúc tôi có cảm giác ngài phải là một người nhiều tuổi hơn, giàu kinh nghiệm hơn. Điều này thật hiếm thấy với một người ở độ tuổi như vậy. Thế mà ngài lại hội tụ đủ những điều đó, chỉ có thể nói trước mặt ta là một thiên tài. Ôi! Giá mà bên cạnh ta cũng có một thiên tài như vậy, thế cuộc ngày nay cũng đã khác.

- Thực ra là ngài có đó nhưng lại nhận không ra đó thôi. Ý tôi chính là con trai ngài, Duệ Thái tử Cảnh.

- Không thể nào. Tuy là y có tài thật nhưng chưa xứng với hai chữ "thiên tài" đâu.

Ngoài mặt, Ánh nói thế nhưng trong thâm tâm ông, Cảnh là một niềm tự hào. Nghe đối phương nói vậy, Toản thoáng mỉm cười rồi hỏi:

- Tôi tin là ngài cũng biết loại chữ viết những truyền giáo người phương Tây biên soạn cho người Việt. Đó là loại chữ viết dễ học, dễ dùng mà chúng tôi đã phổ biến cho dân.

- Loại chữ này, ta có biết và cũng có học qua. Nói thật, nếu người chiến thắng là ta thì ta cũng sẽ cho dùng loại chữ viết này. Cũng như ngài, ta không muốn quá lệ thuộc vào người phương Bắc.

- Thế thì việc đơn giản hơn rồi. Tôi sẽ cho ngào xem một bức thư viết bằng loại chữ viết này. Nhưng trước hết, xin ngài hãy bình tĩnh và kìm lòng. Vì đây là thư do chính con ngài, Thái tử Cảnh viết và ngài sẽ hiểu vì sao con trai mình là một thiên tài. Hơn nữa, trong đó còn có một tin không vui.

Ánh thoáng có chút bất ngờ khi nghe điều này. Ông cầm lấy mẫu giấy Toản đưa. Đây chính là bức thư Cảnh thông qua khách sạn Toàn Thịnh gửi cho Toản. Đương nhiên, Toản đã cắt đi đoạn nói về thân thế thực sự của hai người.

Ánh đọc từng dòng chữ của con mà lệ tuôn rơi. Ông không ngờ con trai mình lại có tầm nhìn xa như vậy, lai tài giỏi như vậy. Ông lại vô cùng đau đớn khi biết bệnh tình của y.

Như hiểu được lòng của vị vua oai hùng một cõi, tiếng đàn chợt vang vọng, thể hiện hết tác dụng sửa chữa những thương tổn tâm hồn của mình. Một lúc sau, Ánh quay sang chắp tay nói với Ngọc Lan:

- Cám ơn, Ngọc Lan Hoàng hậu. Tiếng đàn của cô cũng giúp ta vơi đi chút ít nỗi đau buồn.

- Không có chi, Bệ hạ. Thiếp không giúp được gì nhiều. Chỉ mong tiếng đàn của mình lam cho cuộc đàn luận này dễ dàng hơn thôi.

- Cảnh Thịnh! Quả là ngài đã đúng khi an bài Hoàng hậu ở đây. Ta phục ngài rồi.

- Gia Long Bệ hạ quá khen. Chúng ta quay về việc chính thôi. Xin hỏi, suy nghĩ của ngài thế nào sau khi đọc thư?

- Ta đã già, quá già rồi. Thật khó mà tin những người trẻ tuổi như ngài và con ta lại có tầm nhìn xa như vậy. Ta đoán, chắc ngài đã phái binh đi viện trợ Gia Định rồi chứ?

- Tôi đã phái binh đi cách nay bảy ngày rồi. Người thống lĩnh hải quân chính là anh ruột của tôi, Chinh Tây Vương Nguyễn Quang Bàn, trên bộ thì lại là tướng quân Đặng Văn Phi, con trai của Thượng tướng quân Đặng Văn Long. Tôi đoán, giờ này có lẽ Thái tử đã ra đi và người Phú Lang Sa đã động binh.

- Ta tin vào phán đoán của ngài.

Gương mặt Ánh như già thêm cả chục tuổi. Ông hiểu, thế cuộc nay đã xác định và dã tâm của người Phú Lang Sa cũng nhanh chóng sẽ bị dập tắt.

- Ta là kẻ thua cuộc. Dù có thất vọng nhưng lại tâm phục, khẩu phục, khác với Phụ vương ngài. Nhưng ta cũng mừng là ngài vẫn còn biết nghĩ đến bá tính, nghĩ đến sự tồn vong của dân tộc. Ngài nói đi, ngài muốn ta làm gì?

- Họa ngoại xâm thực ra chưa phải là đã bị dập tắt. Dã tâm của người phương Bắc và người Phú Lang Sa, kể cả Anh Cát Lợi vẫn còn đó. Nhưng nếu tôi có cách để cả hai chúng ta đều là người chiến thắng, ngài có tin không?

- Không thể nào. Điều này không thể xảy ra. Thắng là thắng, thua là thua, ta phải chấp nhận.

Thật. Trăm nghĩ, nghìn nghĩ Ánh vẫn không thể nào hiểu được Toản đang nghĩ gì. Có câu "thắng làm vua, thua làm giặc", không thể nào có chuyện cả hai cùng "làm vua". Chỉ có một lý do duy nhất: đầu hàng. Khi đó, Ánh sẽ thành về tôi của Toản. Thân là một vị vua, điều này là một sự xỉ nhục.

- Gia Long Bệ hạ! Xin ngài hãy bình tâm mà nghe tôi nói. Ngài có tin, trong thời gian rất ngắn sắp tới, Hoàng đế chỉ còn trên danh nghĩa, quyền lực nằm trong tay bá tính. Chỉ khi nào Giang sơn lâm nguy hay có kẻ chuyên quyền, Hoàng đế mới là người đứng ra giữ bình yên cho bá tính hay không?

- Làm gì có chuyện đó. Nếu Hoàng đế không có thực quyền thì ta và ngài tranh đấu cho ngôi cửu ngũ chí tôn để làm gì?

- Vậy mà sẽ có đó. Ngài thử ngẫm lai xem. Trong lịch sử nước nhà, có vương triều nào là mãi mãi trường tồn hay không? Sẽ có một ngày, vương triều đu có mạnh cách mấy cũng xuất hiện một hôn quân. Vua ép dân phản, vương triều sụp đổ.

- Đúng vậy, thiếu gì những vị vua như thế. Lý Long Đỉnh khi xưa là một điển hình. Nhưng như vậy thì đã sao?

- Như vậy cho thấy dân mới là gốc của quốc gia. Dân như nước, quân như thuyền. Nước bình yên phẳng lặng thì thuyền sẽ nhẹ nhàng lướt sóng. Nhưng khi nước giận dữ sục sôi, thuyền sẽ lật nhào. Nếu như vậy, tôi thà giao vận mệnh đất nước vào tay bá tính. Phần mình, tôi sẽ giữ vai trò người định hướng.

Nói đến đây, Toản dừng lại cho Ánh có thời gian suy nghĩ. Rõ ràng ý tưởng nay của Toản chính là nền Quân Chủ Lập Hiến. Nhưng trong tình cảnh hiện tại, làm thế nào cho Nguyễn Ánh hiểu được mới là vấn đề khó nhất. Sự im lặng giữa hai người kéo dài một thời gian khá lâu. Xung quanh không còn bất kỳ tiếng nói nào. Chỉ có tiếng đàn tranh réo rắt nhu dẫn dắt suy nghĩ của hai người.

"Lẽ nào y lại để cho bá tính lựa chọn cho mình người thích hợp nhất để lãnh đạo? Lẽ nào tất cả mọi người đều có thể làm quan?" Những câu hỏi lởn vởn trong đầu Ánh. Bất giác, Ánh nhớ đến một đất nước ở Châu Âu mà mình có lần đọc được trong những cuốn sách lịch sử thời còn ở trên đất Phú Lang Sa. Đó chính là Đế quốc Hy Lạp với hình thức nghị viện. Nhưng những nghị viên đó lại do giới quý tộc và nhà giàu chọn lựa.

- Hay là ngài có ý muốn nói đến thể chế như đế quốc Hy Lạp ngày xưa với hình thức nghị viện?

- Đó là nghị viện của giới quý tộc và nhà giàu, không phải là của mọi người dân. Thể chế mới của chúng ta cũng sẽ tương tự như vậy nhưng sẽ có khá nhiều thay đổi. Nếu làm được điều này, chúng ta sẽ huy động được tất cả sức mạnh của cả dân tộc. Ý ngài thế nào?

- Ta vẫn còn mơ hồ lắm. Nhưng nếu có thể giúp Giang sơn thu về một mối, ta sẽ sẵn sàng đáp ứng. Cái khó là làm sao để bá tính nghe theo. Ngài cũng biết, dân ở phía Bắc không thích ta và dân ở phía Nam không thích ngài.

- Vấn đề này tôi cũng tính rồi. Nhưng trước hết, có một việc cần làm rõ. Tôi biết lý do ngài tuy từng bại trong tay Phụ hoàng tôi nhưng không phục, lại còn hận. Vì chính Phụ hoàng từng xúc phạm phần mộ của tổ tiên nhà họ Nguyễn. Xúc phạm như thế nào có lẽ không cần phải nói nữa.

Nhận thấy Ánh thoáng có chút phẫn uất, Toản dừng lại một chút để ông bình tâm lại. Đoạn, anh nói tiếp:

- Ông bà có câu: "nợ cha, con trả". Tôi xin thay mặt cha nói lời xin lỗi đến với gia tộc ngài. Đồng thời, cho người xây lại từ đường nhà họ Nguyễn. Không biết ý ngài thế nào?

- Thôi, chuyện đã qua thì cũng qua rồi. Bây giờ có oán trách thì cũng được ích gì. Oán thù nên cởi. Lẽ ra, với cương vị người chiến thắng, ngài không cần làm những việc như thế này. Vậy mà ngược lại, ngài lại có hành động như bây giờ cho thấy ngài là một con người độ lượng và biết nghĩ đến bá tính lê dân. Ngài nói sao thì cứ làm vậy đi.

- Có được câu nói này của ngài, tôi cảm thấy mừng lắm. Giờ đây, tôi xin nói ra kế hoạch của mình.

Nói đoạn, Toản bắt đầu nói rõ. Trước hết, anh không còn gọi Ánh là ngài nữa. Xét theo vai vế, Toản gọi ông là chú. Cảm mến sự chân thành của anh, Ánh đã đồng ý. Tiếp nữa là kế hoạch. Theo đó, chiến bại của Ánh ở đèo Cù Mông bị giấu nhẹm đi. Thay vào đó, cả hai sẽ tuyên bố là bất phân thắng bại. Đúng lúc người Phú Lang Sa tấn công Gia Định. Vì thương cho dân lành, không muốn Giang sơn rơi vào tay giặc, cả hai tiến hành hoà đàm ở Phú Yên. Điều quan trọng là có sự hoà giải giữa hai nhà. Nguyễn Ánh cũng đã có tuổi nên lui về, chấp nhận nhường lại Giang sơn cho Toản nhưng ông vẫn giúp cho vị tân Hoàng đế với vai trò cố vấn cùng tước vị Thái thượng Hoàng.

Nói đến tước vị Thái thượng hoàng, lẽ ra nó chỉ dành cho một vị vua khi đến tuổi già muốn nhường ngôi cho con cháu. Phải nói Ánh vô cùng nhạc nhiên với quyết định này của Toản. Song, ông nhanh chóng bị thuyết phục bởi câu nói tiếp theo "Giờ đây hai ta đã là chú cháu. Chúng ta đã là người một nhà. Hơn nữa, chú đồng ý thoái vị nhường lại Giang sơn cho cháu. Ấy không phải là hành động của một vị Thái thượng hoàng là gì. Hơn nữa, thực tâm cháu mong muốn chua xem cháu như con cháu trong nhà. Vả lại, việc hoà giải dân tộc và đoàn kết dân tộc phải bắt đầu từ chua cháu mình".

Vậy là, Toản nhờ đó mới thuận lợi tiếp quản miền Nam. Nguyễn Ánh cũng được lòng dân miền Bắc, được xem như một người hết sức cao thượng và biết lo nghĩ cho bá tính lê dân.

Theo đó, quả thật như lời Toản nói, cả hai người đều thắng. Và quan trọng hơn, Nguyễn Ánh cũng thoát khỏi tiếng xấu đầu hàng. Cả hai quyết định sẽ đưa một hạm đội và một quân đoàn gấp rút về Gia Định đánh đuổi người Phú Lang Sa. Phần họ sẽ thư thả về sau ít ngày.

Vậy là cuộc nội chiến kéo dài mấy mươi năm giờ đây đã chính thức khép lại. Nó kết thúc không theo cách mọi người hay nghĩ, sẽ có kẻ thắng người thua, cũng không có cảnh người thắng tru diệt cả gia tộc người bại. Ngược lại, người đứng đầu hai thế lực lại bắt tay nhau, xem nhau như họ hàng máu mủ. Họ dùng cách kết thúc này để bảo toàn những tinh hoa, nhân tài cho dân tộc. Và một trang sử mới cũng đã được viết lên. Một dân tộc anh hùng và yêu chuộng hoà bình đã chính thức tỉnh lại sau cả trăm năm say ngủ.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 54: Nhường ngôi
Chương 54: Nhường ngôi

"Hoàng thượng lâm triều"

Ngày 30 tháng 3 năm 1801.

Đây là thời điểm quan trọng của cả đất nước. Hai ngày trước, Nguyễn Ánh đã quay về Gia Định. Đi cùng với ông là Quang Toản, Quang Thuỳ cùng mười ba người thuộc Bộ Chính trị nhà Tây Sơn chỉ trừ Nguyễn Văn Tuyết, Thái hậu Bùi Thị Nhạn và Ngô Thời Nhiệm. Bảy bạn quân của miền Nam vẫn được giữ lại ở Phú Yên, chỉ có các tướng lĩnh cấp cao quay về. Dù sao đi nữa, Toản vẫn có chút lòng phòng bị. Rủi chẳng may đến phút cuối, Ánh trở giáo quay lại đâm mình một nhát thì hoá ra công sức bấy lâu đổ sông đổ biển hết. Cả tướng Nguyễn Văn Thành sau mấy ngày dưỡng thương ở Diên Khánh cùng Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Văn Trương bị bắt ở Pleiku cũng được đưa về.

Đoàn người nghỉ ngơi một ngày. Hôm sau, tất cả quan viên, tướng lĩnh thân tín được mời đến họp kín. Cuộc họp này còn có sự hiện diện của vua tôi nhà Tây Sơn, lẽ dĩ nhiên. Khác với các vị quan khác, những người này hiểu rõ sự tình chiến cuộc giữa hai nhà. Thế nên, họ không có gì ngạc nhiên khi Ánh và Toản nói lại kế hoạch của mình. Khi nói đến kế hoạch để Ánh làm Thái thượng hoàng, Toản bất ngờ nói:

- Các vị. Trước khi nói đến việc tiếp theo, ta có việc muốn tuyên bố. Thì hằn giữa Phụ hoàng và Gia Long Bệ hạ chắc mọi người cũng hiểu được nguyên do. Nay thời cuộc đã khác, cũng chính là lúc cởi bỏ oán thù. Khi về đến Phú Xuân, ta sẽ sai người khôi phục tổ miếu nhà họ Nguyễn. Các vị thấy thế nào?

- Hoàng thượng! - Phan Huy Ích nói - Đây là việc nên làm. Thần không dám nói mình đại diện cho tất cả mọi người. Chỉ nói riêng bản thân thần, việc này sẽ giúp hai nhà cởi bỏ oán thù. Lê dân trăm họ vì thế mà cũng cảm thấy vui. Việc đoàn kết toàn dân tộc cũng dễ dàng hơn.

- Cảnh Thịnh Bệ hạ! - Người lên tiếng là Lê Quang Định - Thần thấy ngài nên định ngày khai mở Tổ miếu thành một ngày lễ. Gọi là "Ngày hoà giải" và được kỷ niệm hằng năm. Đây chính là dấu mốc quan trọng cho toàn dân tộc nhớ lại tổ tiên mình đã từng tranh đấu sống còn. Nay hai nhà đã hoà hợp và xây dựng một nền hoà bình thịnh trị. Và cũng nhắc nhở mọi người, chúng ta là đồng bào, phải yêu thương và đoàn kết với nhau.

- Hoàng thượng! - Bùi Thị Xuân cũng xen vào - Thần thấy, nhân đây, chúng ta cũng khôi phục luôn tổ miếu của nhà họ Trịnh. Dù sao đi chăng nữa, họ cũng là những người sống chết vì giang sơn. Chẳng qua do thời cuộc đưa đẩy mà họ lên tiếm quyền.

Ý kiến của ba người làm dậy lên một không khí bàn luận sôi nổi. Điều làm mọi người bất đồng duy nhất chính là lập Tổ miếu nhà họ Trịnh. Vả lại, hậu nhân dòng họ này còn mấy người đâu. Tuy nhiên, chính Nguyễn Ánh là người hết sức ủng hộ. Chính dòng họ này đã cùng gia tộc ông tranh đấu cả trăm năm, ông cũng không thích cho lắm. Nhưng suy cho cùng thì lời của Xuân nói lại rất đúng. Vả lại, oán thù nên cởi, không nên kết. Cuối cùng thì mọi người cũng đồng ý.

Tiếp theo, Toản lại làm dấy nên một hồi phong ba khi tiếp tục tuyên bố:

- Các vị. Gia Long Bệ hạ dù sao thì cũng là người cùng thời với Phụ hoàng ta. Bản thân ta cũng rất phục con người ngài. Ta muốn hoà giải dứt khoát hơn. Ta muốn bái ngài làm nghĩa phụ.
"Ái chà chà! Chú t.ư nhà mình thật là cao minh. Làm như vậy là hoàn toàn dập tắt t.ư tưởng nổi loạn của Nguyễn Ánh rồi đây". Cả hai người anh của Toản không hẹn mà lại cùng nhau có chung suy nghĩ. Quả thật đây là nước cờ cao minh. Một mặt giúp Ánh thuận lợi làm Thái thượng hoàng. Mặt khác, Ánh sẽ không còn lý do gì để mà phản lại nữa. Cả hai anh em nhìn nhau và cùng cười. Quang Thuỳ lên tiếng nói:

- Phải đó. Nhưng không chỉ có chú t.ư nhà ta. Cả ta và chú ba cũng muốn nhận ngài làm nghĩa phụ. Chú Ánh à, xin ngài hãy chấp nhận.

- Con cũng đồng ý. - Quang Bàn nói thêm - Chú cũng biết Phụ hoàng chúng con mất sớm. Chú t.ư còn ít tuổi nên thiếu sự chăm sóc của Người nên không có gì phải bàn. Ngay cả hai người con lớn chúng con, từ nhỏ đã phải xa Người mà cùng các chú lăn lộn sa trường. Chúng con cũng thèm muốn có được tình thương của người cha. Vả lại, Thái tử Cảnh cũng là một trong những người con nể trọng, trước mộ cậu ta, chúng con xem nhau như anh em. Gọi người một tiếng nghĩa phụ cũng không có gì quá đáng.

Một người như Ánh làm sao mà lại không hiểu được tâm t.ư và suy tính của mấy anh em họ. Nhưng ngẫm lại, ông thấy Bàn nói vô cùng có lý. Vả lại, ông vừa mất một đứa con, nay bỗng dưng được đền bù bằng ba đứa khác, lại tài giỏi vô song thì còn gì bằng. Ông nói:

- Nếu các con không ngại như vậy thì ta hà cớ gì mà không nhận ba con làm nghĩa tử?

- Nghĩa phụ trên cao, xin nhận một lạy của nghĩa tử.

Ba anh em đồng thanh nói và lạy Ánh một lạy. Phải nói cái lạy này có giá trị vô cùng khi mà nó mang lại sự ổn định cho cả đất nước. Từ chính cái lạy này, Giang sơn mới thật sự gọi là thống nhất.

Đoạn, Ánh và Toản tiếp tục nói về kế hoạch của họ. Toản cũng hé lộ một ít về thể chế mới. Anh biết mình không thể áp dụng ngay lập tức mà là từng bước một.

Việc tiếp theo nữa là Phan Huy Ích trình bày sơ lược cách tổ chức chính quyền, giáo dục và kinh tế mà nhà Tây Sơn đang áp dụng. Những người ở miền Nam dù đã biết được ít nhiều qua những tin tình báo trước đây vẫn không khỏi ngạc nhiên và thích thú khi nghe chính miệng Ích nói ra. Vào cuối buổi họp, Toản nói thêm:

- Còn hai việc nữa ta muốn làm ngay. Thứ nhất là dẹp bỏ Tô giới và sáp nhập Gia Định, Sài Gòn và Chợ Lớn lại thành một gọi là thành phố Sài Gòn. Ta muốn nơi đây trở thành thành phố lớn nhất cả nước, phát triển nhất cả nước về kinh tế. Ta làm điều này là để tạo thành thế chân vạc. Theo đó, cố đô Thăng Long sẽ là thủ phủ văn hoá, Sài Gòn là thủ phủ kinh tế, tài chính, Phú Xuân là thủ đô, là nơi chính trị sẽ phát triển và nằm giữa cả hai thành phố. Cả ba sẽ là bộ mặt của quốc gia.

- Chúng thần đồng ý. - Mọi người cùng đồng thanh.

- Thứ hai. Ta muốn Đại Việt ta từ nay sẽ có tên mới: Vương quốc Việt Nam, hay chỉ cần gọi là Việt Nam thôi.

...............

Quay trở lại với buổi thượng triều. Nguyễn Ánh sai lão thái giám già tuyên đọc chiếu chỉ mình vừa soạn đêm qua. Giọng tuyên chỉ the thé vang lên, hầu như tất cả mọi người đều giật mình hoảng hốt.

"Phụng thiên thừa vận,

Hoàng đế chiếu viết,

Trẫm từ ngày nhận di mệnh tổ tiên, không ngày nào lại không lo nghĩ. Nếu không phải là bình loạn thì cũng là nghĩ cách làm cho quốc thái dân an.

Nhờ phúc ấm của tổ tiên, ở vùng đất trẫm trị vì mấy năm qua, dân tình ấm no, yên bình. Trẫm chỉ còn một mối lo lớn nhất. Đó là thu Giang sơn về một mối.

Nhân việc đã tích lũy đầy đủ quân lương, quân nhu, trẫm quyết tâm đánh một trận cuối cùng với mười lăm vạn quân. Định bụng, trận này sẽ dẹp tan Nguỵ quốc mà giờ đây ta phải gọi bằng tên đúng là nhà Tây Sơn.

Đến khi hai quân chính thức đụng độ, trẫm nhận ra một sự thật. Đối phương cũng là một phương thái bình thịnh trị. Cảnh Thịnh là một vì vua trẻ, tài giỏi và yêu dân như con. Quân đội của họ mạnh hơn ta nhiều lắm. Mười lăm vạn quân chỉ còn hơn bảy. Bại cục đã định.

Trong lúc này, giặc Phú Lang Sa lại lập mưu giết Thái tử, xâm chiếm nước ta. Điều bất ngờ lại là chính Cảnh Thịnh đến gặp trẫm. Anh ta đề nghị trước mắt bãi binh, lại phái quân thần tốc tiến về giải cứu Gia Định. Và sự thật đã chứng minh là việc đồng ý bãi binh là chính xác.

Trẫm nhiều đêm qua suy nghĩ rất nhiều. Thực tế là quân ta bại cục đã định. Nhưng Cảnh Thịnh lại không lấy đó làm kiêu ngạo, lại bày cho ta một kế để "cả hai cùng thắng", giấu nhẹm trận thua của chúng ta. Từ đó cho thấy đây cũng chính là một vì vua nhân đức mà cả Giang sơn đang cần. Trẫm quyết định hoà giải với nhà Tây Sơn. Mới hôm qua thôi, trẫm quyết định thu ba anh em nhà Tây Sơn làm nghĩa tử.

Nay, trẫm lại ra một quyết định. Từ sau ngày hôm nay, trẫm sẽ thoái vị, nhường ngôi cho Cảnh Thịnh. Từ nay Giang sơn đã thực sự thu về một mối.

Vậy các Khanh khi xưa đã tận trung với trẫm thế nào thì nay cũng hãy tận trung với nghĩa tử ta như vậy.

Khâm thử"


Cả triều thần phút chốc cảm thấy sững sờ. Thật ra, việc Nguyễn Ánh thất bại là điều mà ai cũng đều biết. Từ chính việc ông về Gia Định cùng Toản đã tố cáo tất cả. Họ cũng lờ mờ đoán ra giữa hai vị vua có một thỏa thuận ngầm nào đó. Thật không ngờ, chính Toản là người đề nghị Ánh giấu nhẹm việc mình bại trận. Thế mà chính ông lại tự thừa nhận thất bại của mình. Qua đó cũng thấy rõ đây quả là hai con người cao thượng và biết nghĩ đến cảm nhận của đối phương, biết nghĩ đến lê dân và đáng được mọi người tận trung. Giữa lúc mọi người im lặng, Toản lên tiếng:

- Nghĩa phụ. Sao người không nghe con, giấu nhẹm kết quả chiến cuộc đi? Phải giữ trong lòng các quan và bá tính hình tượng một vị vua oai hùng chứ. Đằng này...

- Nghĩa tử! Ta biết con suy nghĩ cho ta. Kế sách "cả hai cùng thắng" quả thật là tuyệt. Thế nhưng, "cây kim trong bọc cũng có ngày lòi ra". Mọi người rồi cũng sẽ biết. Chi bằng chính ta thừa nhận tất cả. Vậy sẽ tốt hơn.

- Thần đồng ta với Bệ hạ. - Một vị quan già bước lên - Thật thần rất phục hai vị. Người làm nghĩa phụ thì dám nhìn thẳng vào sự thật. Người làm nghĩa tử lại biết hy sinh cái tôi của kẻ chiến thắng, hướng đến lợi ích của dân tộc trước hết và nghĩ đến sĩ diện của nghĩa phụ. Cho dù trong hai vị, ai là vua, thần cũng thề tận trung.

- Đúng vậy! Chúng thần thề tận trung.

- Quang Toản! Con thấy chưa? Đôi khi dám nhìn thẳng vào sự thật lại tốt hơn rất nhiều so với né tránh. Đây chính là kinh nghiệm của người đi trước.

- Nhi tử đã hiểu. Xin nghĩa phụ an lòng. Bởi vậy, việc người lui vào hậu trường làm cố vấn cho con với t.ư cách Thái thượng hoàng là phúc của con, phục của lê dân trăm họ.

Vậy đấy. Cuối cùng cuộc nội chiến kéo dài cả trăm năm kết thúc bằng một cách không ai dám nghĩ tới. Không có sự trả thù tanh máu. Không có cảnh nồi da xáo thịt. Tất cả đều đến từ những con người được xem là thiên tài và biết nghĩ cho dân tộc. Vậy là từ nay, lịch sử nước nhà chinh thức bước sang trang mới với viễn cảnh voi cùng tươi sáng.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 55: Lễ đăng cơ

Chương 55: Lễ đăng cơ


Tin tức về việc nhường ngôi của Nguyễn Ánh nhanh chóng lan xa. Trong mấy ngày này, nó cũng là chủ đề được bàn tán xôn xao khắp mọi miền của đất nước. Sức thu hút của đề tài này lớn đến nỗi nó cũng được đưa vào thơ ca. Ngay cả những đứa trẻ cũng thuộc nằm lòng:

Nghe vẻ nghe ve

Từ ngày lập quốc
Trải mấy nghìn năm
Này là sự lạ
Có ông vua trẻ
Đổi mới canh tân
Thế nước vững vàng
Dẹp tan ngoại loạn
Thêm vua họ Nguyễn
Yêu nước thương dân
Nức tiếng xa gần
Không ngại gian khó
Nếm mật nằm gai
Chờ ngày phục quốc
Hai miền đất nước
Chiến loạn phân ly
Vua trẻ phương Bắc
Đóng ở Phú Xuân
Gia Định phương Nam
Ấy đất họ Nguyễn
Giang sơn thống nhất
Chí của hai vua
Tranh đấu lâu ngày
Vẫn chưa phân định
Đến năm Tân Dậu
Một ngày tháng hai
Phương Nam đại bại
Giặc Phú Lang Sa
Thừa cơ xâm lược
Thế sự khó lường
Ngờ đâu vua trẻ
Chẳng muốn hơn thua
Một phen bày kế
Muốn để hai vua
Đều là người thắng
Kết quả phân tranh
Sai người giấu nhẹm
Binh chia hai đường
Phương nam dẹp giặc
Lại bái Nguyễn vương
Lên hàng nghĩa phụ
Giải hết oán cừu
Giang sơn thống nhất
Nghĩa lớn đại thành
Mừng vui khôn tả
Bỗng chiếu ban ra
Nguyễn vương bố cáo
Trận chiến hôm nào
Thật ra mình bại
Thoái vị nhường ngôi
Cho người nghĩa tử
Nếu hiểu sâu xa
Cũng thành nghĩa lớn
Nghe vẻ nghe ve​

Trải qua mấy ngày sóng gió, thành Gia Định nhanh chóng trở về với sự yên bình vốn có. Khác chăng chỉ là khắp nơi, người ta giăng đèn kết hoa. Vị vua mới mấy ngày nữa sẽ làm lễ đăng cơ tại đây. Ngày trước, đa phần dân chúng không thích nhà Tây Sơn. Với họ, các chúa Nguyễn khi xưa và ngày nay là vua Gia Long mới là vị quân chủ của mình. Đó cũng chính là lý do vì sao khi năm xưa vua Quang Trung dù ai cũng biết là anh minh thần võ cũng không cách nào bắt được Nguyễn Ánh, dân chúng che chở cho ông ta. Rồi các vị nhân sĩ giỏi giang nức tiếng cũng không hề muốn giúp sức cho vị anh hùng cờ đào áo vải. Nhưng nay lại khác. Chính vị vua mà họ thương yêu lại lên tiếng bênh vực và nhường ngôi cho vua Cảnh Thịnh. Nhưng cũng cần phải nói thêm, người dân xứ nam này kể cũng phóng khoáng. Họ chẳng mấy khi quan tâm ai là vua, chỉ cần người nào đó họ thích, đem lại cuộc sống no đủ thì họ ủng hộ, có vậy thôi.

Hôm nay, đường phố Gia Định xuất hiện hai ông cháu. Đứa bé mới lên ba, trông rất hiếu động, hoạt bát và thông minh. Nó thấy đám trẻ con tụ tập hát bài vè thì cũng thắc mắc dữ lắm. Nó hỏi ông mình:

- Nội ơi! Con nghe người ta hát có từ “nghĩa lớn”. Thế, nghĩa lớn là sao hở ông?

- Thăng ơi, con còn nhỏ lắm, chưa hiểu được nghĩa lớn là gì đâu.

- Không! Thăng lớn rồi. Thăng còn biết viết tên mình nữa cơ. Hôm trước thấy mấy anh đi học thầy đồ về có nói tiểu nghĩa với đại nghĩa. Nghĩa lớn có phải là đại nghĩa không nội?

- Cháu của ông giỏi quá. Ừ thì nghĩa lớn chính là đại nghĩa con à. Mà tiểu nghĩa và đại nghĩa đều là từ nghĩa mà ra. Vậy con có hiểu không?

- Hiểu… hiểu… hiểu… Ông nội đừng coi thường Thăng. Ai làm cho người khác vui vẻ, hạnh phúc là có nghĩa. Làm lợi cho ít người là tiểu nghĩa, làm lợi cho nhiề người hơn là đại nghĩa.

- Ha… ha… Thăng giỏi lắm. Thế nội hỏi con nè. Tại sao trong nam, người ta nói nhà Tây Sơn là giặc Ngụy thế mà sao bây giờ họ lại nói là nhà vua có đại nghĩa?

- Vì “thắng làm vua, thua làm giặc” ạ. Ổng thắng và thống nhất giang sơn nên đem lại lợi ích cho nhiều người hơn hồi trước nữa nên mới có đại nghĩa.

- Vậy tại sao vua Gia Long thua, lại nhường ngôi cũng có đại nghĩa? Lẽ ra phải nói ông ta hèn nhát, sợ chết nên làm vậy mới đúng chớ.

- Vì ông ta không muốn dân khổ vì chiến tranh nữa ạ. Vả lại, ông ta là người chính trực, không vì sợ xấu hổ mà giấu nhẹm trận thua đó.

- Giỏi lắm! Cháu nội của ông vậy là hiểu rồi đó. Được rồi. Nội thưởng cho con một chén chè nha.

- Hoan hô! Ông nội có đại nghĩa.

Cậu bé nhảy cẩng lên khi được ông dẫn đến một quán chè gần đó. Cậu nhanh chóng chỉ vào nồi chè hạt sen to tướng mà bảo ông mua cho. Cuộc đối thoại giữa hai ông cháu cho thấy cậu bé này tuy nhỏ mà đã sớm hiểu chuyện. Cậu tỏ ra rất thông minh. Cậu tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng, chính là vị Lãnh Binh Thăng uy dũng ngày sau.

Không chỉ có hai ông cháu mà hầu như những người phương nam này ai cũng hiểu được vì sao cả hai vua đều thành nghĩa lớn. Họ tuy có vẻ ngoài phóng khoáng, không tranh đua với đời, lại có vẻ chân chất hiền lành nhưng lại rất thông minh. Điều này đã được minh chứng khi mà dòng chảy lịch sử chưa bị thay đổi, họ đã nhanh chóng hòa nhập và có t.ư tưởng vô cùng tiến bộ khi mà người Phú Lang Sa xâm chiếm đất nước. Và còn có những người hiểu thấu đáo hơn. Quang Toản đạt thành đại nghĩa không khó giải thích. Việc Nguyễn Ánh cũng đạt thành đại nghĩa thì có phức tạp hơn đôi chút. Thế mà họ hiểu hết đấy. Nguyễn Ánh thấy chỉ có sức mạnh của nhà Tây Sơn mới cứu đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm, ông vì nghĩ tới hạnh phúc của muôn người mà chấp nhận bỏ qua thù hằn, nhận ba người con nuôi, thoái vị nhường ngôi, lại còn ra sức bênh vực và ủng hộ cho Toản. Một người bình thường khó có thể làm được điều này bởi lẽ, dù có ai được xưng tụng là hiền nhân cũng khó tránh khỏi suy nghĩ làm sao cho mình thu được nhiều lợi ích nhất. Ông làm thế, bề ngoài có vẻ như mất đi rất nhiều, song, trên thực tế, ông lại thu được rất nhiều. Ông đã có được sự kính ngưỡng của toàn dân, ông lại chứng tỏ mình là người có lòng vị tha.

……………

Hôm nay là ngày 29 tháng 4 năm 1801, tức là ngày 17 tháng 3 năm Tân Dậu.

Đã một tháng kể từ ngày Nguyễn Ánh tuyên bố thoái vị nhường ngôi. Điều kỳ lạ mà ai cũng thấy. Đó là buổi lễ đăng cơ lại được cử hành ở cổng thành Tây chứ không phải là trong triều. Từ mấy ngày trước, quan quân đã phong tỏa hoàn toan nơi đây. Một tế đàn cao được dựng lên. Người ta còn nhung thấy từng thùng thuốc nổ được mang tới. Tế đàn đương nhiên là phải có. Còn thuốc nổ thì để làm gì đây?

Từ sáng sớm, dân chúng đã nô nức kéo về xem lễ. Họ đứng thành từng vòng, xem ra rất trật tự. Nhiều người bỗng dưng trào nước mắt. Họ có người là những bậc trí giả già nua, cũng vì vui mừng Giang sơn đã đến ngày thống nhất. Còn có những người khóc vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân thường được xem thấy đại lễ quan trọng bậc nhất.

Đến dự khán đại lễ ngoài bá quan còn có đại diện của Anh Cát Lợi, đại diện của các nước lân bang gồm Xiêm, Cao Miên, Ai Lao, Miến Điện, chức sắc các tôn giáo, đại diện các hãng buôn lớn của cả người Việt lẫn phương Tây và Trung Hoa. Sự hiện diện của các nước khác kể cũng là lẽ đương nhiên. Nhưng việc các tôn giáo và thương buôn cũng được mời đến lại làm người ta ngạc nhiên. Chưa hết, các nước nhỏ xung quanh đều được mời, thế tại sao không có nhà Mãn Thanh? Toản và bề tôi của mình đang tính toan gì đây?

Đó là nói về con người. Trên tế đàn, người ta thấy có bảy chiếc bàn với bảy món đồ tượng trưng cho uy quyền của Hoàng đế. Phía trước là một bộ hương án với hai cây nến lớn cùng với lư hương. Phía sau là một chiếc trống đồng truyền thống được đặt trên giá cao.

Phía dưới đài, Toản cùng Nguyễn Ánh ngồi trên hai chiếc ngai vàng. Trước mặt họ là hai hàng bá quan văn võ hợp cùng hàng ghế của các khách mời thành hình chữ U.

Đúng tám giờ sáng, giờ lành đã điểm, vị Thái giám già hầu cận Nguyễn Ánh bao năm xuống lên:

"Giờ lành đã đến. Mời chư vị bá quan, các vị quan khách cùng lê dân bá tính đứng dậy".

Sau khi tất cả mọi người đều đã đứng dậy và ổn định, ông ta mở chiếu chỉ nhường ngôi ngày trước Nguyễn Ánh cho tuyên đọc sau khi trở về Gia Định. Ngoại trừ bá quan, tất cả mọi người ở đây chưa từng nghe qua. Giờ đây, họ mới tin những đồn đoán trước kia là thật. Quả đúng là Nguyễn Ánh vì đại nghĩa và rất thẳng thắn khi tự nhận mình đã bại, rồi ông còn nhận ba anh em Thuỳ, Bàn, Toản làm con nuôi nữa. Tất cả mọi người lúc này đã thật sự khâm phục hai vị vua từng đứng ở hai đầu chiến tuyến. Lúc này, vị Thái giám lại xướng tiếp:

"Mời Gia Long Bệ hạ lên đài thắp nến, hương và tuyên bố nhường ngôi".

Lúc này, Ánh đứng dậy, tiến lên tế đàn trên cao. Ông thắp sáng một ngọn nến, thắp lên ba cây nhang trầm, khấn vái trời đất. Đoạn, ông nói:

"Kính lạy trời cao, kính lạy tổ tiên, cùng kính lạy thần dân trăm họ. Trẫm từ ngày gánh vác việc Giang sơn, kế thừa đại thống cũng đã trải mấy mươi năm. Đến nay, thời cuộc đã khác, sứ mạng của Trẫm cũng đến hồi kết thúc. Nay, Trẫm ở đây, kính cáo với tất cả. Từ ngày hôm nay, Trẫm thoái vị và nhường ngôi cho nghĩa tử và cũng từng là địch thủ rất đáng nể phục, Cảnh Thịnh của nhà Tây Sơn".

Tiếp theo, Toản cũng được mời lên tế đàn. Vị Thái giám lại tiếp:

"Thỉnh Gia Long Bệ hạ truyền cho tân hoàng bảy món tín vật tượng trưng cho uy quyền của Hoàng đế".

Từng món tín vật được Ánh trao cho Toản. Đầu tiên là chiếc Hoàng bào tượng trưng cho gánh nặng Giang sơn, chiếc mũ Long quán tượng trưng cho ngôi cửu ngũ chí tôn, thanh gươm tượng trưng cho uy quyền của Hoàng đế, tấm bản đồ đất nước tượng trưng cho cả Giang sơn, Ngọc tỷ, Một quyển sách tượng trưng cho việc chính sự, Một cây súng nạm vàng tượng trưng cho quân đội.

"Mời tân Hoàng thắp lên ngọn nến đánh dấu ngày đầu tiên lĩnh mệnh trời cùng thắp ba nén nhang để tế cáo trời đất" - lão Thái giám lại nói.

Toản y lời làm theo. Khi anh vừa cắm xong ba nén nhang trầm vào lư hương cũng là lúc bá quan văn võ đồng loạt quỳ xuống mà tung hô vạn tuế. Lúc này, vị Thái giám già lại một lần nữa lên tiếng:

"Thành lễ. Mời Hoàng thượng nói đôi lời và ban đạo thánh chỉ đầu tiên".

Nghe thấy lời này, Toản thở phào nhẹ nhõm vì cuối cùng, những lễ nghi rườm rà cũng đã xong. Đứng trên đài cao nhìn xuống bá quan và dân chúng, anh dõng dạc mà nói:

“Kính cáo với trời đất, tổ tiên cùng lê dân trăm họ,

Toản nay nhận mệnh trời, lên ngôi cửu ngũ. Dù sao, Toản vẫn là người phàm, chắc chắn sẽ mắc nhiều sai lầm. Đến khi đó, khẩn mong lê dân trăm họ thương mà bỏ quá cho. Tuy vậy, Toản hứa sẽ cùng với mọi người đưa nước Việt ta thành một quốc gia hùng cường, đời sống của muôn người được ấm no, hạnh phúc.

Nay Toản lên ngôi, lấy hiệu là Cảnh Thịnh. Lại cho dùng Quốc hiệu Việt Nam trên toàn cõi đất nước. Quốc hiệu này nhắc cho mỗi người nhớ rõ, chúng ta là dân tộc Việt, sinh sống ở phương Nam. Toản muốn chúng ta tách khỏi hoàn toàn sự ảnh hưởng của người Trung Hoa ở phương Bắc mà đại diện là Đại Thanh triều.
Sau lại truy phong cho Phụ hoàng Quang Trung – Nguyễn Huệ là Anh Võ Thái thượng hoàng, nghĩa phụ Gia Long – Nguyễn Phúc Ánh là Nhân nghĩa Thái thượng hoàng. Toản còn trẻ, kính mong nghĩa phụ đảm nhận việc cố vấn. Lại nữa, kính dâng nghĩa phụ Hoảng giản, nếu Toản có lầm đường lạc lối, nghĩa phụ có quyền dùng nó mà đánh Toản trước mặt muôn dân.

Đó là sắc lệnh thứ nhất. Cái thứ hai chính là. Các quan địa phương tiến hành thống kê lại nhân khẩu. Mỗi người dân Việt từ nay trở đi được gọi là công dân và được phát một thẻ gọi là Chứng minh thư. Tác dụng của nó là để mỗi người dù đi đến đâu cũng được biết đến là người dân nước Việt. Đây là việc quan trọng, yêu cầu quan viên tiến hành làm gấp.

Thứ ba, mỗi người từ khi sinh ra, lớn lên, già lão, bất kể là nam – phụ – lão – ấu đều có quyền được học hành đến nơi đến chốn. Vậy, từ hôm nay, Toản lệnh cho các địa phương xây dựng trường học, phân cấp từ Tiểu học đến Sơ trung, Cao trung. Nên nhớ, giáo dục, văn hóa là cái gốc của mỗi con người, điều này cần được nghiêm chỉnh thực hiện.

Thứ t.ư, mấy nghìn năm qua, dân ta chịu ảnh hưởng nặng nề của người phương Bắc. Chữ viết của chúng ta dù là chữ Nôm vẫn là chữ của họ. Toản muốn dân ta cắt đứt hoàn toàn sự ảnh hưởng này. Hai trăm năm gần đây, những nhà truyền giáo phương Tây đã giúp người dân ta sáng tạo ra một loại chữ viết mới. Toản đã cho người nghiên cứu cải tiến và phổ cập ở toàn miền Bắc. Đây là thứ chữ viết dễ học, dễ dùng. Từ ngày hôm nay, tất cả mọi người trên toàn lãnh thổ đều phải học thứ chữ này và nó sẽ có tên là chữ Quốc ngữ.

Thứ năm, để thống nhất trên toàn quốc, Toản cho dùng hệ thống tiền tệ mới thay cho hệ thống cũ. Theo đó, tiền xu vẫn được sử dụng như bình thường nhưng là loại mới. Ngoài tiền xu, còn có tiền giấy với mệnh giá lớn. Xin bá tính miền Nam yên tâm sử dụng. Toản cho tới nay đã áp dụng thử nghiệm ở toàn miền Bắc và nhận được sự hài lòng bởi tính tiện dụng của nó. Các quan viên địa phương sẽ thay mặt Toản giải thích và đổi tiền cho mọi người.

Thứ sáu, Toản sẽ thay đổi chính sách đất đai. Theo đó, mỗi người dân đều có đất để trồng trọt, chăn nuôi, tất cả nông sản, hoa lợi đều thuộc về mình. Mỗi năm hoặc mỗi tháng, tuy theo thu hoạch của mỗi người mà quy thành tiền để đóng thuế nhưng mức đóng không được quá mười phần trăm. Chính sách này như thế nào thì trong vòng một tháng nữa, mọi người sẽ được phổ biến.

Thứ bảy, Toản sẽ cho cải cách chế độ quân ngũ. Theo đó, các binh sĩ già lão, trên hai mươi bảy tuổi sẽ được trả về quê an dưỡng và sinh sống. Mỗi người sẽ được cấp vốn để tính kế sinh nhai. Toản lại không cần truy thu lương thực hay tiền tài mỗi tháng. Thay vào đó, mỗi người dân trên mười tám tuổi hàng năm phải đóng góp một số tiền rất nhỏ gọi là Phí An ninh – Quốc phòng, và số tiền này cũng không quá một phần trăm thu nhập.

Thứ tám, Toản phân đất nước thành ba miền Bắc, Trung, Nam để tiện bề quản lý. Mỗi miền đều có một thủ phủ riêng. Theo đó, miền Bắc lấy cố đô Thăng Long làm thủ phủ và sẽ là đại diện cho nền văn hóa của dân tộc. Miền Trung lấy Kinh thành Phú Xuân làm trung tâm và sẽ đại diện cho hệ thống chính quyền Tầng lớp trung tâm. Miền Nam sẽ lấy Gia Định làm thủ phủ và sẽ đại diện cho nền kinh tế, tài chính của cả nước.
Thứ chín, về thành Gia Định. Toản nhận thấy quy mô hiện nay không phù hợp với tầm vóc của nó. Toản ra lệnh sát nhập Gia Định, Sài Gòn, Chợ Lớn làm một và lấy tên mới là Thành phố Sài Gòn. Tô giới cũng bị bãi bỏ. Toản sẽ cho người quy hoạch lại thành phố để nó trở thành một thành phố kiểu mẫu cho cả nước. Người dân Gia Đinh, Sài Gòn, Chợ Lớn hãy lấy đó làm niềm tự hào của mình.

Thứ mười, mọi người cũng biết, với hỏa lực quân sự hiện nay, thành quách không còn đủ khả năng phòng thủ như ngày xưa nữa. Chỉ cần một quả đạn đại bác cũng có thể làm nó lung lay. Vả lại, các bức tường thành vô tình cũng trở thành biểu tượng của sự ngăn cách. Trong khi đó, Toản muốn mọi người đều có quyền bình đẳng như nhau, không phân biệt bất cứ một ai. Do vậy, từ hôm nay, Toản ra lệnh phá bỏ toàn bộ các bức tường thành trên toàn quốc. Bắt đầu từ thành Gia Định. Nhưng khác với các địa phương khác, nơi đây, Toản cho giữ lại một phần của tường thành phía Đông để làm minh chứng cho lịch sử.

Thứ mười một, Toản chủ trương đoàn kết tôn giáo. Mỗi người đều có tự do tín ngưỡng theo một tôn giáo nào mình thích. Bởi vậy, lệnh cấm tôn giáo sẽ được triệt để bãi bỏ. Các vị chức sắc tôn giáo, các vị nếu cần nơi thờ phụng, là Chùa miếu, là Nhà thờ, là Đình viện, chỉ cần các vị thấy cần thiết, Toản sẽ duyệt cho xây mới hay sửa chữa tùy nhu cầu.

Thứ mười hai và cũng là cuối cùng. Lệnh bế quan tỏa cảng từ nay cũng sẽ phá vỡ hoàn toàn. Toản cho phép mọi thương buôn khắp nơi đổ về đây buôn bán. Toản cũng khuyến khích thương buôn trong nước vươn ra thế giới bên ngoài mà làm giàu cho mình và cho đất nước. Nếu ai có phương án khả thi, Bộ Thương nghiệp sẽ hỗ trợ người đó hết mình. Báo cho các vị một tin vui, hiện nay, Anh Cát Lợi đang có hiệp ước với chúng ta, Toản sẽ giúp các vị vượt biển để buôn bán hợp pháp. Ngoài ra, sứ bộ của triều đình cũng sẽ đi trước, đến các nước khác đặt mối quan hệ để tiện bề cho mọi người sau này. Nên nhớ, nếu chúng ta chỉ nhập mà không xuất, nền kinh tế chắc chắn sẽ suy yếu, chúng ta sẽ trở thành người bị lệ thuộc. Hãy cho toàn thế giới biết, chúng ta cũng có những món hàng hóa đặc trưng của mình.

Những lời của Toản đã hết. Giờ đây, mọi người hãy nhìn về bức tường thành phía trước, nó sẽ bị đánh sập hoàn toàn. Con kính mời nghĩa phụ lên đánh một hồi trống, sau hồi trống này, tường thành sẽ biến mất. Và hồi trống này cũng chính là tiếng trống báo hiệu nền hòa bình thịnh trị mới trên toàn cõi Giang sơn chính thức bắt đầu”.

Dứt lời, Nguyễn Ánh nhận lấy hai chiếc dùi, tiến về chiếc trống đồng đặt trên cao. Ông vung tay đánh một hồi trống giòn giã, vang vọng. Nước mắt ông không hiểu tự lúc nào lại chảy ra. Ông chờ đợi giây phút này lâu lắm rồi. Đây chính là giây phút đất nước hoàn toàn quy về một mối. Có khác chăng, người đứng đầu đất nước không phải là ông. Song, điều này có là gì khi mà người nhận mệnh trời lại là nghĩa tử của mình, là người dù nhỏ tuổi hơn vẫn được ông nể trọng với tính cách khoan dung, đại lượng mà tài giỏi vô song.

Hồi trống vừa dứt cũng là lúc hàng loạt tiếng nổ vang rền. từng mảng, từng mảng tường thành đổ sụp xuống. Rất nhiều người dự khán bỗng dưng rưng rưng lệ. Họ khóc, những giọt nước mắt chảy ra chính từ tấm lòng của họ. Họ khóc nhưng trong bụng lại vui mừng khôn tả. Bức tường đổ xuống cũng đại diện cho quá khứ u mê, trầm luân đã biến mất. Trước mắt họ là một chân trời mới, diện mạo của Giang sơn từ đây sẽ thay đổi hoàn toàn. Sự an bình thịnh trị từ nay sẽ trường tồn. Một đất nước hùng cường bắt đầu được sinh ra. Con rồng đất Việt đã bừng tỉnh và bay lên chín tầng trời.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 56: Thành phố Sài Gòn
Chương 56: Thành phố Sài Gòn

"Hoàng thượng lâm triều".

Một ngày sau Đại lễ Đăng cơ, Toản thượng triều lần đầu tại thành Gia Định. Trên bệ rồng được đặt hai chiếc ngai vàng, một đanh cho Toản, một dành cho Nhân nghĩa Thái thượng hoàng Gia Long. Sau khi được quần thần triều bái, Toản nói:

- Các vị Khanh gia bình thân. Người đâu, ban tọa.

Nghe lời này, các thần tử trước đây phụng sự nhà Tây Sơn không có gì ngạc nhiên. Ngược lại, mấy vị quan theo phò Nguyễn Ánh ngày trước lai hết sức vỡ ngỡ. Trong t.ư tưởng của họ, chỉ những người đức cao vọng trọng hay có công lao hãng mã mới được ngồi trong buổi chầu triều. Vả lại, buổi chầu hôm nay cũng không phải bắt đầu từ sáng sớm như thường lệ mà phải đến tám giờ. Hiểu ý bá quan, Toản nói:

- Các vị Khanh gia chớ ngạc nhiên. Trẫm là người thượng tôn sự công bằng. Tất cả chúng ta đây trước mặt trời đất, tổ tiên và thần dân trăm họ, ngoài chức vị, ai cũng là con người. Vậy thì về cơ bản, chúng ta như nhau. Bởi vậy, hà cớ gì mà chỉ có Trẫm và nghĩa phụ được ngồi? Từ rày về sau, trong các buổi triều sớm, sau khi mọi người đã an vị, tất cả chúng ta đều ngồi.

- Nhưng bẩm Bệ hạ - Hoàng Minh Khánh nói - tục lệ tổ truyền đã là như vậy, chúng thần không dám trái.

- Bệ hạ cho ngồi thì ông cứ ngồi, mắc chi phải thắc mắc? - Người lên tiếng là Võ Tánh. Ông là một vị võ tướng nổi tiếng bộc trực và trung thành. Bởi thế, ông không ngại gì phản bác Khánh. Nói thật, ngày trước, nếu như không phải chính Gia Long nhường ngôi thì dù cho có bị kề đao lên cổ, ông cũng không theo về với Toản.

- Nhưng đó là tục lệ tổ truyền, chúng ta phải giữ - Khánh đáp trả.

Ở trên bệ rồng nhìn xuống, Toản mỉm cười rồi nhẹ nhàng nói:

- Hai vị Khanh gia không cần tranh cãi. Trẫm cám ơn Võ Tánh tướng quân. Còn Khánh đại nhân. Ngài nói phải, tục lệ tổ truyền là phải giữ. Nhưng tục lệ này là ai truyền? Không phải là người Trung Hoa sao? Trẫm không muốn chúng ta mãi cứ phải lệ thuộc vào họ. Việt Nam là của người Việt, chúng ta cũng có phong tục tập quán riêng, cớ gì phải theo họ. Trẫm muốn từ nay phải xoá bỏ toàn bộ.

Phải nói bá quan, kể cả Nguyễn Ánh ở trên cao cũng lộ rõ vẻ ngạc nhiên. Họ quay nhìn nhau mà tranh luận. Một lát sau, chính Nguyễn Ánh lên tiếng:

- Các vị Khanh gia không cần phải nghị luận nữa. Trẫm thấy Hoàng thượng nói phải lắm. Ngày Trẫm còn tại vị, Trẫm vẫn luôn canh cánh điều này. Ngày xưa ta phải theo tục lệ như họ bởi vì chúng ta yếu hơn họ. Ngày nay đã khác, Trẫm không nói ta đã mạnh hơn họ nhưng nếu song phương giao chiến, chưa chắc hươu chết về tay ai.

- Thần nhi cảm ơn nghĩa phụ hiểu thấu lòng con.

Toản chắp tay thi lễ với Ánh. Cả triều thần lúc này cũng đã bình tâm. Lời nói của Ánh đã đánh thức lòng tự tôn dân tộc, hình tâm trong tâm khảm của họ. Lê Quang Định là người đầu tiên ứng lời:

- Nhị hoàng nói phải. Quả thật chúng thần bao năm bị ăn sâu t.ư tưởng của người phương Bắc mà quên đi điều này. Từ rày nhẫn sau, chúng thần một lòng nghe theo lời của hai vị. Quả thật, Bệ hạ và Thái thượng hoàng Bệ hạ là những người anh hùng, thấu tình đạt lý.

- Khanh gia không cần tự hạ mình. Nhân đây, Trẫm lặp lại câu nói ngày trước ở Phú Xuân. Không phải Trẫm hay nghĩa phụ là anh hùng. Mỗi người các vị đều là anh hùng. Vận mệnh Giang sơn nằm trong tay các Khanh.

Nghe lời này, những thần tử Tây Sơn ngày trước bồi hồi xúc động. Họ nhớ lại cảm xúc của mình ngày nào. Họ lại ngẫm nghĩ về mấy năm vừa qua. Quả thật, Toản chỉ đóng vai người chỉ đường, mọi sự thay đổi, không, phải nói sự lột xác của đất nước đều nằm trong tay họ. Có được vị vua anh minh như Toản mà có lẽ là cả Ánh nữa chính là phúc ấm tổ tiên ban cho. Mà suy cho cùng, nếu không phải Toản nắm quyền thì Ánh cũng đáng để mọi người ngưỡng vọng. Cái khác biệt lớn nhất giữa hai người chính là phương pháp và Toản lại là người dám chia sẻ quyền lực của mình cho bá quan. Nguyễn Văn Tuyết lúc này đã vào Gia Định bỗng nhiên tiến lên. Ông trước tiên chắp tay thi lễ với Ánh rồi mới nói:

- Thái thượng hoàng Bệ hạ. Bao nhiêu năm chúng ta ở hai đầu chiến tuyến. Thần thật cho tới trước giờ phút này vẫn không phục ngài nếu không muốn nói là khinh thường. Thái thượng hoàng Bệ hạ xin đừng vội trách. Đây là tâm t.ư chung của những thần tử nhà Tây Sơn trước nay. Nghe những lời ngài nói, thần chợt hiểu ra. Ngài cũng như Bệ hạ, là vị vua anh minh và biết lo nghĩ cho dân tộc. Thần và tin chắc những người khác nữa đã không còn nghi ngờ quyết định của Bệ hạ nữa và cũng thật lòng tâm phục Thái thượng hoàng Bệ hạ. Xin ngài vui lòng nhận lấy một lễ này của thần.

Nghe lời này, Phan Huy Ích cũng ứng tiếng đồng tình. Đoạn, tất cả thần tử Tây Sơn cùng bước ra. Họ cùng chắp tay hành lễ với Ánh.

Lúc này, tâm t.ư Ánh cảm thấy xúc động vô cùng. Ông nghĩ: "Có những bề tôi hiểu chuyện và tài giỏi thế này hỏi sao miền Bắc không phát triển rực rỡ. Non sông từ nay cũng sẽ hùng cường thịnh trị. Quang Trung ơi! Ta phục ông rồi. Ông đã sinh ra những người con quá ưu tú. Ta thật không bằng ông". Đoạn, Ánh nói:

- Ngài bộ trưởng cùng các vị Khanh gia không cần đa lễ. Trẫm hiểu được lòng các vị cũng là đủ rồi. Có điều, Trẫm mong các vị và những vị khác nữa. Mọi người hãy dẹp bỏ suy nghĩ mình là người của triều này hay triều kia đi. Chúng ta, tất cả đều là người một nhà, đều là công bộc của thần dân trăm họ. Chúng ta hãy cùng nắm tay nhau mà xây dựng non sông. Trẫm muốn mọi người hãy ôm nhau, thể hiện thành ý hoà giải thật sự và xoá bỏ mọi hiềm khích.

Nói đoạn, ông bước xuống mà ôm chầm lấy Tuyết, rồi đến Ích. Mọi người cứ thế mà làm theo. Những giọt nước mắt hạnh phúc chợt tuôn rơi. Cả những binh sĩ đứng gác bên ngoài chính điện cũng không thể cầm lòng. Có người còn chợt khóc tống lên. Cũng có người hô vang: "Tương lai của dân tộc đây rồi. Mắt ta đã sáng lên rồi. Tạ ơn trời đất, tạ ơn tổ tiên".

Chờ mọi người bình tâm, Toản lên tiếng:

- Các vị Khanh gia xin bình tâm lại. Hôm nay bờ cõi đã định nhưng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Trẫm sẽ nêu từng việc ra đây để chúng ta cùng bàn. Có bốn việc cần kíp. Thứ nhất, về chế độ làm việc. Chúng ta sẽ không phải chầu triều mỗi ngày, tốn thời gian. Thay vào đó, tuỳ vào năng lực mỗi người mà các Khanh được phân vào mỗi bộ khác nhau. Mỗi ngày, các Khanh chỉ đến làm việc tại nhiệm sở, chúng ta sẽ chầu triều một ngày duy nhất trong tháng. Ý các Khanh thế nào?

- Khởi bẩm bệ hạ - Trịnh Hoài Đức nói. - Cả tháng vừa rồi, những người trong Nam chúng thần đã được đại nhân Phan Huy Ích phổ biến cách làm ở miền Bắc. Thần thấy cách này rất hay, nhưng có vài điều cần bổ sung thêm.

- Khanh nói xem. Thứ nhất, chúng ta nên tổ chức hai lần chầu triều mỗi tháng, một đầu tháng và một giữa tháng. Nhân sự cũng không cần nhiều, chỉ cần bộ trưởng và thứ trưởng là đủ. Thứ hai, chúng ta cần phân lại các bộ hiện tại.

- Ý ông là cần bỏ bớt hay thêm vào một số bộ? - Phan Huy Ích hỏi.

- Thêm vào và cả tách ra. Này nhé, bộ văn hoá và giáo dục tách làm hai. Bộ tài chính tách làm hai thành bộ tài chính và ngân hàng. Cải tổ lại bộ y tế, tách thành hai ngành là Đông y và Tây y. Ngoài ra, lập thêm bộ khoa học. Sự phát triển của miền Bắc cho thấy chúng ta cần có một cơ quan chuyên nghiên cứu khoa học để chủ động phát triển những kỹ nghệ mới. Ngoài ra, chúng ta lập thêm bộ t.ư pháp để xét xử các vụ khiếu kiện và các vụ án. Và mỗi địa phương đều có một cơ quan cấp dưới của bộ. Làm như vậy, áp lực của các quan chưởng quản cũng giảm đi. Vì thế, sự nhũng nhiễu dân lành cũng sẽ giảm bớt.

Sau khi nghe ý kiến của Đức, các quan bắt đầu tranh luận. Không khí lúc này sôi động hẳn lên. Đa phần ý kiến mọi người đều đồng ý. Cuối cùng, mọi người nhất trí với mười bốn bộ bao gồm: Chính trị nay nâng tổng thành viên lên hai mươi lăm người, Quân sự, An ninh, t.ư pháp, Văn hoá, Giáo dục, Khoa học, Ngoại giao, Tài chính, Ngân hàng, Y tế, Công nghiệp, Nông nghiệp, Thương nghiệp. Riêng bộ chính trị, Toản quyết định sẽ khai tử sau mười năm nữa. Thay vào đó là Quốc hội gồm hai viện: Thượng viện chính là bộ chính trị hiện tại, còn lại là Hạ viện gồm những quan chức do chính người dân bầu lên.

Lúc này, Toản lại nói:

- Việc thứ nhất đã xong. Việc thứ hai vô cùng cần kíp. Đó là tổ chức lại quân đội. Ý các Khanh ra sao?

Nguyễn Quang Huy lúc này đang là bộ trưởng bộ Quốc phòng tiến lên nói:

- Khởi bẩm. Sau trận nội chiến vừa rồi, ba quân đoàn chúng ta bị tổn thất khá nhiều, quân đội miền Nam lại theo cơ chế cũ với phần đông là quân nhân trên hai mươi bảy tuổi. Theo ý thần, chúng ta hãy nhanh chính sát nhập cả hai bộ phận quân đội lại. Sau đó, ta tái cơ cấu thành bốn quân đoàn ứng với ba miền và Tây Nguyên. Những người trên hai mươi bảy tuổi sẽ có bốn hướng cho họ lựa chọn. Một là giải ngũ cùng một số vốn để làm ăn; Hai là cho họ đi học nghề và phân vào các đơn vị của Nhà nước làm việc; Ba là những ai muốn gắn bó với binh nghiệp sẽ được học tập để trở thành sĩ quan; Bốn là những người có nhiều kinh nghiệm được điều về làm công tác huấn luyện tại các quân trường.

- Về cách an trí quân đội, thần không đồng ý lắm thưa Bệ hạ - Võ Tánh nói.

- Khanh thử phân tích xem.

- Thần đồng ý với bốn quân đoàn. Nhưng muốn bổ sung thêm. Mỗi hành tỉnh, chúng ta nên lập một đội quân địa phương. Đây là đội quân phản ứng nhanh và dự bị cho quân chủ lực. Thành phần chính sẽ là những ai vừa đậu Tú tài hai và chuẩn bị vào Cao đẳng. Họ buộc phải vào đội quân này để rèn luyện một năm. Sau đó, họ được về địa phương để tiếp tục học hành. Người chỉ huy của họ chính là lấy từ nhóm quân nhân thứ t.ư như đại tướng bộ trưởng Nguyễn Quang Huy nói.

- Thần cũng đồng ý với tướng quân Võ Tánh - Nguyễn Văn Tuyết nói - nhưng cũng xin góp ý thêm. Những tướng quân như Võ Tánh tướng quân cũng sẽ như thần. Tức là sẽ làm việc ở ban Tổng tham mưu mà không trực tiếp cầm quân. Các vị có tầm nhìn. Thế nên việc đứng ở một bên chỉ đạo, tạo điều kiện cho các sĩ quan trẻ để họ ra sức cống hiến sẽ hay hơn. Không biết, ý của Võ Tánh tướng quân thế nào?

- Ý kiến này rất hay. Thần nghĩ, điều này sẽ phù hợp với chúng thần. Ngoài ra, phần của thần, khẩn mong Bệ hạ cho thần đảm nhiệm công việc đào tạo sĩ quan. Thần muốn truyền kinh nghiệm của mình cho lớp trẻ.

- Thế còn hải quân? - Người hỏi Nguyễn Văn Thành.

Nguyễn Văn Thành cũng giống Vũ Văn Dũng ngày trước. Ông là tướng quân nhưng lại có chiều hướng thích và gắn bó với hải quân. Bởi vậy, ông không quan tâm sao được khi mà còn đó cả trăm chiến thuyền và lính thủy.

- Tôi cũng tính cả rồi. Đoàn thuyền đang neo đậu ở Cam Ranh đáp ứng được nhu cầu cho thời cuộc chỉ là một phần hai, tức là khoảng ba trăm chiếc. Điều này vừa khéo lập thành một hạm đội. Cái cần làm là bổ sung thêm ba chiếc Định Quốc nữa là đủ, việc này cũng không lo, năm sau chúng ta sẽ hoàn thành. Như vậy, chúng ta sẽ có bốn hạm đội. Trong đó, sẽ có sự luân phiên trú đóng ở ba miền và một hạm đội viễn dương tuần duyên. Cứ hai năm sẽ có một đợt luân chuyển.

- Vậy số còn lại thì sao? - Thành hỏi tiếp.

- Một nửa trong số đó, ta sẽ cải biến chúng thành thuyền buôn và bán cho thương nhân. Việc này sẽ được giới thương buôn ủng hộ. Bởi lẽ, có vài chiếc chiến thuyền trong thương đội sẽ giúp họ có thể chủ động đối phó cướp biển. Số còn lại, ta sẽ bán cho các nước khác. Dù gì thì chiến thuyền của chúng ta cũng là số một ở châu Á.

Nói như Huy, xem ra vấn đề thứ hai đã được giải quyết. Mà quả vậy, mọi người hết sức ủng hộ. Nhất là đối với hải quân, giải pháp này vừa giúp nước nhà có thêm tiền để xây dựng, lại không lãng phí. Lúc này, Toản mới nêu vấn đề thứ ba.

- Các Khanh, vấn đề thứ ba, Trẫm đã có ý riêng của mình. Chỉ cần các Khanh tiến cử cho Trẫm một người thôi. Đó là an bài cho thành phố mới Sài Gòn. Trẫm sẽ đặc phái hai người là Phan Huy Chú và Phạm Thái quy hoạch thành phố và tiến hành xây dựng nó. Họ là hai người chọn đúng ngành này để học ở trời Tây. Kinh phí ban đầu sẽ do triều đình cung cấp. Các năm sau đó, Sài Gòn chỉ cần nộp lại một phần ba tiền thuế, còn lại sẽ được dùng cho xây dựng. Chưa hết, số tiền xây dựng rất lớn. Do đó, cần huy động thêm tiền trong dân. Và gánh nặng này cần một người đứng ra gánh vác, đồng thời cũng là người đứng đầu thành phố. Các Khanh hãy đề cử người này cho Trẫm.

Bá quan lúc này đều nhất trí đề cử một người. Vị này bản thân là một tướng quân, lại từng giữ chức Tổng trấn Gia Định và được bá tính yêu thương. Không ai khác, đó là Tả quân Lê Văn Duyệt. Nói thật, không ai hiểu rõ người dân ở đây bằng ông. Bởi thế, Toản ưng thuận, giao lại trọng trách cho ông với chức vụ mới, Thị trưởng thành phố. Phụ tá cho Duyệt là Hoàng Minh Khánh.

- Việc thứ t.ư, Trẫm sẽ bàn riêng với bộ Quốc phòng và bộ Chính trị. Kết quả thế nào, các Khanh sẽ được biết sau. Giờ thì, trừ hai bộ Trẫm vừa nói, tất cả hãy nghỉ ngơi.

Lúc này, buổi chầu triều kết thúc. Vấn đề thứ t.ư, các quan dù vô cùng thắc mắc vẫn không tài nào biết được. Phải đến năm năm sau, bí mật mới được hé lộ. Và cũng chính nó đã làm nên tên tuổi của nước Việt Nam.

...............

Từ sau ngày lễ Đăng cơ của nhà vua trẻ, thành Gia Định đã khoác lên mình một diện mạo mới. À, phải nói là thành phố Sài Gòn mới đúng chứ. Như lời đã hứa, Toản giao cho Phạm Thái và Phan Huy Chú quy hoạch lại toàn bộ đường sá, nhà cửa của thành phố mới. Đây là hai người nổi bật nhất trong nhóm du học sinh đầu tiên sang Anh Cát Lợi. Cũng không hiểu đây là do có sự sắp đặt giữa họ hay vô tình mà hai người lại theo học hai ngành riêng biệt nhưng bổ trợ nhau. Đó là quy hoạch đường sá và quy hoạch nhà cửa. Sau mấy ngày cùng nhau nghiên cứu, bàn bạc, cả hai cùng quyết định bắt tay từ Gia Định. Đây là khu vực chính của thành Phụng hay thành Bát Quái ngày trước. Các con đường đan xen với nhau theo đường thẳng thành hình bàn cờ. Vả lại, bề rộng của các con đường đều tương đương nhau, cho phép bốn chiếc xe ngựa lớn cùng di chuyển theo hàng ngang.

Trước tiên, Phan Huy Chú với ngành học quy hoạch đường sá đã làm liền hai bản vẽ. Bản thứ nhất rất đơn giản, nó chính là sự phân bố của các con đường hiện hữu. Điều khác biệt so với hệ thống đường sá cũ đó là một con đường sẽ bao gồm lòng đường rộng lớn để xe cộ qua lại và hai vỉa hè ở hai bên dành cho người đi bộ. Bản thứ hai, anh cho xây dựng hệ thống đường thoát nước. Phải biết, thời điểm này, các thành phố lớn ở châu Âu đều có hệ thống thoát nước hoàn chỉnh bên dưới các con đường. Phan Huy Chú quyết định khu vực này sẽ có một đường thoát nước chính, đặt sâu bên dưới, cách mặt đường bốn mét. Anh gọi đây là đường thoát nước cấp một. Đã có cấp một thì đương nhiên sẽ có cấp hai. Đó là những đường thoát nước nằm cắt ngang đường cấp một và được đặt cách mặt đất ba mét rưỡi. Và cuối cùng là đường thoát nước cấp ba, chạy song song với đường cấp một, nằm cách mặt đường ba mét. Theo bản vẽ, nước thoát từ mỗi căn nhà sẽ theo những đường ống nhỏ hơn đổ vào một chiếc hố sâu gọi là cống. Từ đây, nước thải sẽ đổ vào các đường cấp ba rồi chảy vào cống của đường cấp hai. Nước thải của những nhà nằm trên đường cấp hai sẽ đổ vào cống của đường cấp hai và cũng tương tự với những nhà nằm trên đường cấp một. Như vậy, nếu nhìn tổng thể thì nước thải sẽ theo đường cấp ba đổ vào cấp hai rồi đến cấp một. Các miệng cống đều có nắp đậy với những lỗ nhỏ cho nước mưa chảy xuống và cứ bốn căn nhà sẽ có một cống đặt bên vệ đường. Cuối đường thoát nước cấp một sẽ là một trung tâm nước thải với ba miệng cống lớn hình tròn, đường kính năm mét, sâu tám mét đặt nối tiếp nhau và sau đó là đường ống đổ ra sông Đồng Nai. Để tạo nên các đường thoát nước này, Chú đã huy động các thợ gốm sứ làm ra những đường ống hình tròn từ đất sét như các vật dụng họ thường làm nhưng có thêm bột đá vôi và cát. Đây chính là một loại chất liệu kết dính để xây dựng mà anh học được ở Anh Cát Lợi. Các đường ống có hình trụ tròn, đường kính lần lượt là hai mét, một mét rưỡi và một mét tương ứng với ba loại đường ống cấp một, hai và ba. Thành ống cũng khá dày, khoảng một tấc rưỡi.

Tương tự như Phan Huy Chú, Phạm Thái cũng dùng cùng một loại chất liệu kết dính những viên gạch đất nung để xây nên những căn nhà. Anh quy định, khu vực Gia Định này chính là trung tâm chính trị và tài chính của thành phố. Đây chính là nơi tọa lạc nội cung cũ, được xây dựng lại thành một tòa nhà lớn và hiện đại, anh gọi đó là Tòa Thị chính. Ngoài ra, khu vực này còn có tòa nhà chi nhánh của Ngân hàng Tầng lớp trung tâm, các ngân hàng t.ư nhân, văn phòng làm việc của các ban ngành và nhà ở của các quan.

Như vậy, theo như sự phân định của hai người, khu vực Gia Định là trung tâm chính trị, tài chính. Kế đến, khu vực Sài Gòn là nơi người Việt sinh sống và kinh doanh. Khu vực Chợ Lớn là nơi người gốc Hoa sinh sống. Riêng người phương Tây, họ có thể sinh sống và làm việc ở Sài Gòn hay Chợ Lớn đều được. Tuy nhiên, những người châu Âu này lại thích và chọn Sài Gòn làm nơi ở và làm việc. Khu vực Chợ Lớn vì thế mà gần như trở thành khu vực riêng của người Hoa, tuy nhiên, nơi đây cũng chính là địa điểm tập kết của các mặt hàng nông sản từ vùng đồng bằng trù phú đổ về. Ngoài ra, khu vực Tây Bắc của thành phố là một vùng đất mới. Nơi đây, hai người phân định sẽ là nơi đặt các nhà xưởng với các nhà máy dệt, nhà máy sắt thép, nhà máy gạo và nông sản, những làng nghề thủ công, tách biệt với phần còn lại của thành phố chuyên dùng cho dân chúng cư ngụ, buôn bán.

Theo lệnh của Toản, Chú và Thái phải hoàn tất việc xây dựng cơ bản cho thành phố mới trong năm năm. Đây là một việc xem ra rất khó nếu nhìn từ lăng kính của người thế kỷ hai mươi mốt. Thế nhưng, đây là giai đoạn đầu của thế kỷ mười chín. Đất đai lúc này rất thoáng và rộng rãi. Một căn nhà cao nhất cũng chỉ có hai tầng, bề ngang là tám mét. Vả lại, khi xây dựng đường sá cũng là lúc dân cư sinh sống ở đây đồng thời cho xây lại nhà mình. Vì thế, thời gian năm năm là khả thi. Hai anh quyết định, trong năm đầu tiên, họ sẽ hoàn thành khu vực Gia Định cùng khu nhà xưởng vùng Tây Bắc. À, cũng phải nói thêm, đường đất cũng không còn tồn tại nữa. Sau khi lắp đặt các đường ống thoát nước, lấp đất đá, trên bề mặt sẽ là một lớp phủ của hỗn hợp chất kết dính và cát, đá dày một tấc. Hai vỉa hè cũng được lát đá.

Ba năm thấm thoát trôi mau. Thành phố Sài Gòn nay đã thành hình trước thời hạn. Nó đã bắt đầu mang dáng dấp của một trung tâm kinh tế, tài chính với bốn quận. Theo đó, các quận được đánh số từ một đến bốn tương ứng với các khu vực Gia Định, Sài Gòn, Chợ Lớn, Tây Bắc. Các con đường cũng đặt tên bằng hai số đại diện cho quận và số thứ tự của nó trong quận, giữa hai số lại được ngăn cách bở một dấu gạch ngang. Trên mỗi quận đều có hai bệnh viện lớn, một của Đông Y và một của Tây Y. Lại nữa, trừ quận một, ba quận còn lại đều có ba trường tiểu học, hai trường sơ trung và một trường cao trung phục vụ cho việc giáo dục. Trước mắt, trong năm năm này, tất cả các trường dù là sơ trung hay cao trung đều được dùng để dạy học cấp một, đến năm thứ sáu, tức là năm hiện tại, 1807, các trường sơ trung sẽ chính thức hoạt động và sau đó sẽ tương tự với trường cao trung.

Có câu "dùng người thì không nghi", từ ngày đăng cơ, Quang Toản tỏ ra vô cùng tin tưởng khi đặt thành phố Sài Gòn vào tay vị tổng trấn năm xưa của thành Gia Định, Lê Văn Duyệt. Phải nói, trong số quan lại, binh tướng triều Nguyễn, không ai hiểu rõ nơi đây bằng ông. Giờ đây, ở triều đại mới, Duyệt càng chứng tỏ được bản lĩnh của mình. Nhờ ông mà Phan Huy Chú và Phạm Thái luôn có đầy đủ tiền mà kiến tạo thành phố.

Lại có câu "phi thương bất phú", Lê Văn Duyệt liên tục đưa ra những chiến lược phát triển thương nghiệp vô cùng hiệu quả. Thành phố Sài Gòn dù vừa phải lo xây dựng, vừa phải đảm bảo cho cuộc sống của mấy trăm nghìn người vẫn nộp về cho ngân khố một lượng tiền rất lớn. Có được điều này nhờ vào đâu nếu không phải do chính sự điều hành thông minh và khéo léo của ông?

Cảng Bến Nghé từ sau ngày bị tàn phá bởi sự tấn công của người Phú Lang Sa nay đã trở thành cảng dành cho các loại tàu thuyền chuyên chở hành khách. Mọi hoạt động giao thương đường thủy với nước ngoài giờ đây chuyển hẳn sang cảng mới, cảng Sài Gòn. Các thương thuyền với nhiều quốc tịch cập bến ngày càng nhiều. Điều này cũng đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều hàng hoá luân chuyển qua đây.

Có thể nói, phát triển thành phố Sài Gòn là một quyết định vô cùng đúng đắn. Người dân thành phố hiểu rất rõ vị thế mới của nơi mà mình đang sinh sống. Bởi thế, khi ngài thị trưởng vận động một thì họ đóng góp tới gấp hai, ba lần. Họ lại còn đóng góp sức lao động để xây dựng nữa. Thường thì mỗi gia đình đóng góp hai người thanh niên trai tráng vào đội ngũ thợ xây dựng.

Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi mà việc xây dựng chỉ mất có ba năm là đã hoàn thành. Không những thế, dù rằng Toản đã cho phép giữ lại một phần tiền thuế để xây dựng nhưng Sài Gòn vẫn nộp vào ngân sách một số tiền khổng lồ. Nhân sự thành công của Sài Gòn, Toản cũng hạ lệnh cho tất cả các thành phố lớn nhỏ trong cả nước tiến hành quá trình lột xác của mình. Ngay cả Thăng Long và Kinh thành Phú Xuân cũng có nhiều nét đổi mới. Quá trình đô thị hóa ở đây phát triển vô cùng mạnh mẽ. Tuy vậy, cả hai nơi đều không mang kiến trúc đậm nét châu Âu như Sài Gòn. Thăng Long được bao phủ bởi lối kiến trúc ấm áp tình người của nền văn hóa Việt từ nghìn xưa với các căn nhà mái ngói đỏ tươi cùng những họa tiết rồng phụng. Kinh thành Phú Xuân lại mang tính chất giao hòa giữa cổ kính và hiện đại.

Cũng từ sau khi Sài Gòn thành hình, một bộ mới trong thể chế chính trị mới cũng được lập nên, bộ Xây dựng. Chức năng của nó đúng như tên gọi, đảm nhiệm việc xét duyệt các công trình mới từ đường xá, nhà cửa đến việc bảo trì. Kể cả việc điều hành các bến cảng, các trạm xe ngựa cũng được bộ quán xuyến. Bộ trưởng của nó chính là Phạm Thái. Ngay cả người thợ già Vũ Huy Cẩn nổi tiếng với các công trình kiến trúc, người chế tác các loại vũ khí cùng tàu thuyền cũng được điều về làm việc tại đây.

Cả nước sục sôi trong không khí xây dựng. Nếu lúc trước, mọi kinh khí đều dồn cho Sài Gòn thì nay, chính Sài Gòn lại cấp kinh phí cho cả nước. Mọi vấn đề giao thương đều đưa về cảng Sài Gòn. Sau khi mọi việc hoàn thành thì trật tự sẽ quay về như cũ. Và đây cũng chính là lúc mà thời điểm năm năm như Toản đã nói cũng đến gần. Và, diện mạo của cả đất nước cũng biến đổi mạnh mẽ. Từng bước phát triển vững chắc đã đặt vào tay mỗi người dân Việt một nền móng vững chắc cho cuộc sống hạnh phúc và thịnh vượng. Đó cũng chính là thời điểm công bố vấn đề thứ t.ư mà Toản hứa lúc trước đã đến gần, hứa hẹn một tương lai sán lạn cho sự chuyển mình bay lên của con rồng Việt Nam.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 57: Kế hoạch chống ngoại xâm
Chương 57: Kế hoạch chống ngoại xâm
Trở lại với buổi thượng triều đầu tiên sau lễ Đăng cơ. Sau khi bãi triều, Toản mời các vị trong bộ Chính trị, bộ Quốc phòng cùng Nguyễn Ánh và hai người anh đến vườn hoa phía sau. Tại đây, một bàn tiệc nhỏ đã được bày ra với trà, rượu và vài món ăn nhẹ. Toản nói:

- Nghĩa phụ và các vị Khanh gia, sáng giờ chắc mọi người chưa kịp dùng bữa đâu nhỉ. Chúng ta trước hãy dùng ít chút đồ ăn rồi đi vào công việc.

- Con thật là khéo, Toản à – Ánh nói. – Ta từ sáng đến giờ cũng có ăn gì đâu. Nào, mọi người cùng ngồi vào bàn đi.

Mọi người cùng cười rồi nhanh chóng ổn định chỗ ngồi. Nhìn hồ nước trước mặt, ánh mắt Nguyễn Ánh như chìm vào trong hồi tưởng. Lát sau, ông lại nói.

- Con nuôi à! Cha thấy hình như thiếu thiếu cái gì đó thì phải.

- Chắc cha nhớ tới buổi đàm luận hai tháng trước ở Phú Yên đúng không? Thiếu một cây đàn tranh và một cây sáo.

- À… Ờ… đúng rồi. Nhưng còn một điều nữa. Người đánh đàn. Nói thật, cha rất thích nghe cô con dâu nuôi này đánh đàn.

- Nghĩa phụ, con đã ở đây nãy giờ rồi.

Từ sau khóm hoa thược dược đang khoe sắc, Hoàng hậu Ngọc Lan yểu điệu bước tới. Cô ôm theo cây đàn tranh quý giá của mình, mỉm cười chào hỏi Ánh cùng hai người anh chồng và bá quan.

- Thím t.ư này – Quang Bàn cất tiếng trêu chọc. – Từ ngày cô về làm dâu nhà này. Anh hai với anh chưa từng nghe em đánh đàn. Thế mà nghĩa phụ lại được thưởng thức trước. Không công bằng.

- Anh chả gọi là nghĩa phụ còn gì. Cha thì phải được nghe trước con chứ. Vả lại, hi… hi… em còn chưa tính sổ vụ chị ba có tài kéo violon tuyệt hay nữa đó. Chị em em thường hay cùng nhau hòa tấu. Lúc đó thì anh vẫn còn ở mãi đâu đâu, hỏi sao mà nghe được.

- Ha… ha… Hóa ra con dâu nuôi thứ hai, à không, phải là thứ nhất chứ cũng có tài đánh đàn à? Ngày trước, khi ở bên Phú Lang Sa, cha từng được thưởng thức tiếng đàn violon. Âm thanh của thứ nhạc cụ này êm ái và hay vô cùng.

- Vậy đi, để anh về nói với Sophia. Thế nào cũng phải cho hai em đọ sức đánh đàn một phen. Để xem vợ của anh hay vợ của chú t.ư, ai giỏi hơn. Anh thì thua kém chú t.ư nhiều mặt quá rồi, không thể thua trong việc này được.

- Này, này. Ít ra thì con vẫn còn hơn một người đấy. chẳng phải anh hai của con vãn chưa có vợ sao?

- À… há… Con quên mất. He… he… anh hai. Khi nào anh cho ra mắt chị hai đây? Em với chú t.ư chờ dài cổ rồi đấy.

Nghe thế, Thùy gãi đầu, ấp úng nói:

- Ơ… ơ… Việc này không gấp được đâu. Vả lại… anh còn chờ ý kiến một người.

Anh nói thế rồi đưa mắt liếc nhìn vị bộ trưởng đáng kính nhưng sợ vợ số một, Nguyễn Văn Tuyết. Ý anh thế là đã quá rõ. Toản nhanh ý quay sang Tuyết:

- Chú Tuyết à? Vậy là cháu biết đối tượng của anh hai rồi. Chú biết là ai không?

- Cái này à? Cái này thì chú biết lâu rồi. Khổ nỗi, có người cứ im, không dám lên tiếng. Nhát gái thế này khéo lại phải ế mất thôi.

- Nhát gái? – Thùy hỏi – Chú Tuyết này, thế ngày xưa chú tỏ tình trước hay thím vậy nhỉ?

- Hay cho cái tên nhóc nhà ngươi. Dám ghẹo gan chú à?

- Ủa? Hóa ra ông Tuyết anh dũng phi thường cũng mắc bệnh nhát gái à?

Ánh cũng nhân dịp công kích. Cũng phải nói, ông cũng rất nhanh chóng hòa nhịp và làm thân với những người Tây Sơn như Tuyết. Và điều này cũng làm cho những người hầu cận ông bao nhiêu năm thấy ngạc nhiên thích thú. Không ai ngờ vị quân vương năm xưa sau lớp Hoàng bào kia lại là con người vui vẻ, dễ gần đến thế.

- Thái thượng hoàng không biết đó thôi – người lên tiếng là Trần Quang Diệu. Phải nói, ngoài Vũ Văn Dũng thì Diệu là người thích châm chọc Tuyết nhất. – Lão Tuyết nhà ta nổi tiếng là sợ vợ số một, chẳng bù với tôi. Ha… ha…

Đang nói, Diệu bỗng thấy sau lưng lạnh buốt. Bởi lẽ, không biết từ lúc nào mà có một đôi mắt sắc lẹm đang chiếu tướng ông. Nếu không phải là ánh mắt của bà vợ yêu quý Bùi Thị Xuân thì còn ai vào đây nữa. Nhưng Xuân chỉ làm đến đó rồi thôi. Có lẽ, chuyện gì xảy ra sau đó thì chỉ có hai người biết. Bà nói thêm:

- Quay lại việc chính đi. Hóa ra Quang Thùy đang tăm tia cô bé Ngọc Sương đó à?

- Ôi… chị họ. Đến chị cũng châm chọc em sao? Mà kể cũng lạ, đối với chị, đây là chính sự à?

- Đừng đánh trống lãng. Đừng để chị phải hỏi trực tiếp cô bé.

Đến đây, mọi người phá lên cười. Không ai có thể nhận ra đây là buổi nói chuyện giữa nhà vua và quần thần. Mọi người còn xem nhau như anh chị em. Đến nỗi, nhóm cựu thần nhà Nguyễn mà đại diện là Lê Quang Định cũng không cảm thấy xa lạ nữa. Ông tiếp ngay một đoạn thơ ngắn:


Hay cho danh tướng nước nhà

Sa trường chinh chiến chỉ là trò chơi

Tưởng rằng uy vũ muôn nơi

Không ngờ ngậm đắng ở nơi tình trường

Lại thêm một đấng thân vương

Trong tay quyền lực vẫn nhường chị em

Mọi người ngẩn mặt mà xem

Mở mang tầm mắt, lại thêm vui cười.

Quả là một việc vui tươi

Cha hiền, rể quý, hai người kết thân.

Đó, bấy nhiêu cũng đủ hiểu giữa những người trước kia đối đầu nhau nay đã hóa giải hết mọi oán cừu. Đây chính là nền tảng cho sự phát triển của đất nước. Chính những con người này mới có thể tạo dựng nghiệp lớn. Với kẻ thù, họ là hung thần, quyết chí không tha. Ngược lại, với những người của mình, họ xem nhau như anh em một nhà. Nước Việt cần lắm những con người như thế.

- E… hèm… Quay lại việc chính thôi – Toản nói.

- Bệ hạ, xin mời nói – Lê Quang Định nhanh chóng cởi bỏ dáng vẻ cười đùa mà quay lại với mục đích của buổi nói chuyện hôm nay.

- Trẫm nói đây. Mọi người cũng biết, chúng ta tuy đã thống nhất Giang sơn nhưng vẫn còn đó mối lo ngoại xâm. Mọi người phân tích thử xem tình hình thế nào.

Mọi người bắt đầu tiến hành thảo luận trong tiếng đàn nhẹ nhàng của Ngọc Lan. Hóa ra, vấn đề thứ t.ư mà Toản muốn đề cập chính là họa ngoại xâm. Một điều ngạc nhiên nữa chính là Ngọc Lan. Ai đời một vị Hoàng hậu, được xem là Mẫu nghi thiên hạ như cô lại hạ mình đệm đàn cho những người ở đây. Thế nhưng, điều mọi người ít biết, đó là Ngọc Lan cũng góp ý rất nhiều cho các quyết định của chồng. Những buổi như thế này, cô rất thích. Mọi lời của những người ở đây không thể nào lọt khỏi tai cô. Trong vai trò người đứng ngoài cuộc thảo luận, cô luôn có những ý kiến khách quan hơn để mà bổ sung cho Toản.

Lúc này, việc được nhiều người thảo luận nhất là mối họa từ người Phú Lang Sa. Đa số đều cho rằng người phương Bắc lúc này lại không đáng ngại. Việc một hải đội của Phú Lang Sa xuất hiện và tấn công cảng Bến Nghé ngày trước cho thấy dã tâm của họ. Hiểu rõ người châu Âu nhất tại nơi này không ai khác ngoài Ánh và Bàn. Song, chính Quang Thùy, người chưa từng chạm trán với Phú Lang Sa lại phát pháo bác bỏ khả năng của mối đe dọa này. Anh nói:

- Chắc mọi người đều nhớ chỉ lệnh của Quang Toản là không để bất kỳ một người Phú Lang Sa nào sống sót dù là tù binh. Điều này trái ngược hoàn toàn với tôn chỉ của dân tộc ta từ nghìn xưa, đó là yêu chuộng hòa bình và đề cao lòng nhân ái. Có ai hiểu được lý do không?

- Thần quả là có thắc mắc về điều này từ ngày Bệ hạ ra chỉ lệnh. Nhưng thân là thần tử, lại chịu ơn cứu mạng và nâng đỡ của Bệ hạ, thần vẫn không hề lên tiếng hỏi lại. Chẳng hay Vương gia có thể giải tỏa khúc mắc này của thần và mọi người ở đây không? – Nguyễn Quang Huy đặt câu hỏi ngược lại.

- Phải đó – Trịnh Hoài Đức lên tiếng. – Nói thật, tôi lúc đó hoàn toàn bất ngờ khi nghe hiệu lệnh của Văn Phi tướng quân và Chinh Tây Vương gia. Tôi cũng muốn biết nguyên do.

Thùy lúc này nhìn về phía Toản. Nhận thấy cái gật đầu của người em, anh mới giải bày:

- Mục đích của việc đuổi tận giết tuyệt này không phải là vì chúng ta tàn nhẫn. Cái chính là không để người Phú Lang Sa biết được thực hư của ta. Chắc chắn việc không nhận được hồi báo của Hải đội, những người chỉ huy cấp cao của giặc chắc chắn đoán ra tình hình thảm bại của mình. Thế nhưng, họ nhất định sẽ không dám tấn công chúng ta vì chưa biết tình hình quân lực của chúng ta. Vả lại, việc đi lại trên đại dương phải mất vài tháng trời nếu không muốn nói là cả năm trời. Trước một địch thủ mà mình hoàn toàn mơ hồ, các ngài có dám mạo muội tấn công không?

- Ra là các ngài muốn bịt mọi tin tức. Nhưng thế thì cũng không thể giữ được mãi. Bởi lẽ trong thành lúc đó vẫn có những thương buôn và những người truyền giáo Phú Lang Sa. Họ vẫn có thể lặng lẽ truyền tin tức về.

- Việc này thì tôi biết – người lên tiếng là Quang Bàn. – Thắc mắc của đại nhân bao gồm hai đối tượng. Đó là giới thương buôn và các nhà truyền giáo. Về giới thương buôn. Thật ra, tôi đã cho thuyền chiến bịt tất cả các con đường của họ trên biển. Cứ hễ gặp thương thuyền nào, chúng tôi đều ép họ quay về, dù là thương thuyền của nước nào. Chờ sau ngày thống nhất của Giang sơn hôm nay mới cho phép họ rời đi. Và đó cũng chính là lý do của việc phá vỡ lệnh bế quan tỏa cảng hiện tại. Giới thương buôn cũng được mời đến dự khán lễ Đăng cơ cũng chính là để họ hiểu, chúng ta khuyến khích họ buôn bán. Là những người làm ăn, họ rất ít khi muốn nhúng tay vào việc chính trị, quân sự. Chỉ cần ai đem lại lợi nhuận lâu dài thì sẽ lấy được lòng tin của họ. Họ sẽ không dễ dàng tự đập vỡ nồi cơm của mình đâu.

- Tôi hiểu rồi – Hoàng Minh Khánh nói. – Nhưng còn những nhà truyền giáo. Tôi có từng nghe một đoạn trong tôn chỉ của họ, đại khái là để mọi vua, mọi nước phải quỳ dưới chân của lãnh tụ bọn họ. Theo tôi được biết thì người đó là vị gọi là Đức Giáo hoàng và các vị Hồng y Giáo chủ.

- Vấn đề này thì Trẫm có thể giải thích – Toản nói xen vào. – Điều đó xuất phát từ câu “Đức Ki – tô là vua muôn vua, là chúa các chúa” và câu tôn chỉ của những người theo dòng Tên như ý ngài nói là “Nguyện khiến mọi quốc gia phải quỳ phục dưới chân Ngài”. Thật ra, mọi người đã hiểu lầm câu này. Không phải họ đến đây để xâm lược. Họ đến để truyền bá niềm tin của mình. Trên tinh thần, Đức Ki – tô hay còn gọi là Đức Chúa, cũng chính là người được xưng là “Ngài” trong câu sau là lãnh tụ tinh thần. Ý họ nói chính là Vương triều trên trời, nơi mà mọi người chỉ đến được sau khi chết. Điều này không hề mang ý nghĩa trần gian.

- Thế sao còn có các cuộc “Thập tự chinh” và “Thánh chiến”? – Người hỏi là Nguyễn Ánh.

- Nghĩa phụ. Cha không biết nguồn gốc sâu xa của nó. Đây là cuộc chiến giữa người Thiên Chúa giáo La Mã và người Hồi giáo. Nói cho đúng thì đó là một cuộc nội chiến. Bởi lẽ, hai tôn giáo này có cùng nguồn gốc là Do Thái giáo. Bắt đầu từ khi người Hồi giáo xâm chiếm các lãnh địa của người Thiên Chúa giáo, kể cả Thánh địa Jerusalem. Quốc vương các nước bị xâm chiếm đã chạy đến cầu viện Đức Giáo hoàng Urban II. Đáp lại, Đức Giáo hoàng đã kêu gọi các quốc gia châu Âu giúp đỡ và chiến tranh nổ ra. Vả lại, chiến tranh cũng đã kết thúc từ thế kỷ thứ mười ba.

- Việc lịch sử thế nào thì ta khoan hãy xét tới – Bàn xen vào. – Trước mắt, những nhà truyền giáo đến đây với mục đích duy nhất là phổ biến đức tin của họ. Vả lại, họ đến đây trên những thương thuyền. Thời điểm đó, các thương thuyền đã bị chặn thì họ biết đi đâu mà báo tin. Vả lại, hiện tại chúng ta đã cho phép họ truyền giáo công khai, mắc chi mà họ lại làm điều gây hại cho ta.

- Trẫm hiểu rồi – Ánh gật đầu, nói. Và mọi người cũng đừng ngạc nhiên khi ông xưng mình là “Trẫm”, bởi lẽ Thái thượng hoàng dù gì cũng được kể là vua.

- Cũng cần nói thêm – Bàn nói. – Thật ra, dù cho người Phú Lang Sa có biết được kết quả thì cũng không dám tấn công ta lúc này. Nếu lúc trước có người nào đó sống sót và về báo tin, họ sẽ tấn công ta ngay vì lúc đó họ vẫn đang ở rất gần ta, ngoài khơi Ấn Độ. Tuy nhiên, sự chậm trễ thông tin đã làm họ e ngại. Và, một điều nữa cần hết sức lưu ý. Đó là giờ đây họ đang chiến đấu chống lại cả châu Âu mà đứng đầu là Anh Cát Lợi nên không có rảnh tấn công ta đâu.

Mọi người lúc này đã hiểu ra cớ sự. Họ gật đầu đồng ý với những nhận định này. Vậy thì nỗi lo của nhà vua chẳng phải là người phương Bắc hay sao? Nhưng giờ đây, nhà Thanh mà người nắm quyền là Gia Khánh Hoàng đế vẫn đang còn hòa hảo với ta, chưa có động binh. Vậy thì còn lo lắng điều gì? Võ Tánh lúc này mới hỏi:

- Bệ hạ. Ý ngài có phải là chúng ta sẽ nghĩ cách đối phó với nhà Thanh?

- Đúng vậy. Trẫm đang muốn có hành động với họ. Trẫm muốn năm năm nữa sẽ có một cuộc chiến. Nhưng lần này không phải là vì chúng ta có ý định xâm chiếm mà là đe dọa họ. Chúng ta bao nhiêu năm phải xưng thần với họ. Vị vua nào của đất nước cũng vì để quốc thái dân an mà vẫn phải hạ mình sang đó để được sắc phong. Với Trẫm, đây là một nỗi nhục. Trẫm muốn cho họ thấy, chúng ta là một nước chứ không phải là một quận của họ. Giữa ta và họ là mối quan hệ ngang hàng chứ không phải ta thấp hơn họ. Nhưng chiến tranh nào cũng phải có lý do, và chính nghĩa phải nằm trong tay ta. Các khanh xem thử có kế sách nào hay không?

Nguyễn Huỳnh Đức nói:

- Bệ hạ, thần có một cách. Đó là dù Bệ hạ đã lên ngôi nhưng chúng ta vẫn không đi sứ sang đó để nhận được sắc phong. Hãy lấy lý do là quốc sự còn bề bộn. Nhiều lần như thế, họ sẽ xem là chúng ta khinh thường họ. Gia Khánh sẽ cho quân sang đây chiinh phạt. Vậy là chúng ta đã có cớ là đánh đuổi ngoại xâm.

- Cách này không ổn – Võ Tánh nói. – Bệ hạ, chỉ cần chúng ta một năm không đi sứ, nhận sắc phong là đã khiến họ nổi giận đem quân tràn sang đây rồi. Nhưng đúng như Bệ hạ nói, chúng ta cần năm năm.

- Hay là trước chúng ta vẫn đi sứ. Nhưng đến năm thứ ba hay thứ t.ư hoặc thứ năm chúng ta không đi nữa. Và chúng ta cũng không cần cống nạp cho chúng. – Trịnh Hoài Đức góp ý.

- Trẫm thấy không ổn – Ánh nói. – Như vậy, dù sao cũng vẫn là ta đã xưng thần với chúng. Phải làm sao để chúng ta vừa không chịu cái nhục quốc thể này, vừa có dịp cho chúng một bài học.

Lúc này, Quang Thùy sau một hồi lâu suy nghĩ cũng đã có ý kiến của mình.

- Tôi có cách này. Chẳng phải trước giờ chúng ta vẫn ủng hộ Thiên Địa hội ở Lưỡng Quảng và hải tặc ở Đài Loan hay sao? Bây giờ, chúng ta tăng thêm tài lực và binh khí ủng hộ Thiên Địa hội để bọn họ làm phản. Lại nữa, trong số chiến thuyền ta dự định bán cho nước ngoài, hãy để vài chiếc tặng cho đám hải tặc Đài Loan để chúng ra sức tấn công. Lúc này, nhà Thanh phải lo âu bình ổn nội loạn thì không còn sức đâu mà xâm lược nước ta. Đến bốn năm sau, ta sẽ nhờ gián điệp của CPQ đã cài bên đó lúc trước kích động, bảo rằng ta xem thường Thiên triều, đem quân hỏi tội ta. Vậy thì mọi việc sẽ vừa khéo năm năm.

- Ý kiến hay – Bàn góp lời anh mình. – Mọi người còn nhớ Mã Kim Đa, hiện đang là Đại sứ của Anh Cát Lợi chứ? Hiện tại, chúng ta đã cho phép họ có một cảng sửa chữa tàu thuyền ở Quảng Trị. Mục đích của họ chỉ là để có nơi đặt chân mà chiếm nhà Thanh thôi. Và họ cũng chưa có cái cớ hợp lý. Lần này tôi sẽ bày kế cho Mã Kim Đa. Bảo rằng, hiện tại hai nước là minh hữu. Việc nhà Thanh tấn công Việt Nam chính là tấn công đồng minh của họ. Vì thế, họ có quyền hỗ trợ đồng minh của mình đánh nhà Thanh. Đây là cái cớ tốt nhất. Lúc đó, ta và Anh Cát Lợi hai đường đánh tan quân phương Bắc và tiến sâu vào lãnh thổ nhà Thanh.

- Hay… ý hay… – Ánh nói – Quả là một công đôi chuyện. Nhân tiện đây, chúng ta sẽ chiếm luôn đất, à không phải nói là đòi lại vùng Lưỡng Quảng vốn là đất đai tổ tiên.

Mọi người lúc này mắt sáng rực. Hùng tâm lại trỗi lên. Họ quyết phen này phải rửa nhục cho nước nhà. Song, Toản lại nói:

- Nghĩa phụ! Chúng ta đúng là phải đánh tận thành Bắc Kinh. Nhưng sau đó, ta sẽ rút về cùng với lời cảnh cáo. Ta không cần đòi Lưỡng Quảng lúc này.

Mọi người hết sức ngạc nhiên. Toản thì ngược lại, anh bình tĩnh nói tiếp:

- Chúng ta không cần mang tiếng xấu xâm lược mà vẫn có Lưỡng Quảng.

Lại một lần nữa, mọi người há hốc nhìn vào vị vua trẻ. Trong hồ lô của Toản đang bán thuốc gì? Làm gì mà có chuyện dễ dàng như thế?

- Các vị nghe Trẫm nói. Anh ba, ngày thành hôn, anh vẫn chưa có quà hôi môn đúng không? Chúng ta lần này dù đánh thắng nhưng không dành phần với minh hữu, ta không thể có thêm một kẻ thù được. Ngược lại, ta sẽ giúp người Anh Cát Lợi. Sau đó, thông qua chị ba, chúng ta sẽ có món quà hồi môn là vùng Lưỡng Quảng. Mọi người thấy thế nào?

- Hay tuyệt – Ánh nói. – Quả thực ta bại trận trong tay con quả là không có gì khó hiểu. Kế sách này quả là một mũi tên trúng cả mấy con nhạn chứ đừng nói là trúng hai con. Ta đúng là vừa có đất, lại có tiếng nhân nghĩa nữa.

Vậy là rốt cuộc, mọi người nhận thấy đây là kế sách vẹn toàn. Việt Nam sẽ có cả trăm lợi ích mà không đánh mất hình ảnh dân tộc yêu hòa bình của mình. Và đúng là chúng ta đâu có tranh giành gì với ai. Chúng ta chỉ muốn khẳng định chủ quyền của mình, vị thế của mình. Và thời điểm điều đó xảy ra cũng sẽ chính là thời điểm trang lịch sủ vẻ vang, đáng tự hào của dân tộc được mở ra.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Ngô Thu

Chương 58: Diện mạo mới
Chương 58: Diện mạo mới

Sài Gòn đã thành hình sau ba năm xây dựng. Sự thành công của nó là niềm tự hào của người dân thành phố, cách riêng đối với Lê Văn Duyệt. Là một người con của đất Tiền Giang, nhưng chính Gia Định năm xưa và thành phố Sài Gòn ngày nay mới chính là bệ phóng cho một thiên tài quân sự như ông thăng hoa rực rỡ. Là người chưởng quản thành phố, từ rất sớm, ông đã định hình con đường để mảnh đất nơi đây trở thành đất lành cho người dân sinh sống và nhân tài khắp nơi hội tụ để tìm kiếm cho mình một cơ hội lập thân, lập nghiệp.

Ông từng có rất nhiều lời nhắn nhủ cho thuộc cấp. Quan trọng nhất, có một câu nói của ông đã làm cho rất nhiều người phải suy nghĩ, nhất là đối với hai vị đồng liêu trẻ Phạm Thái và Phan Huy Chú. Ông nói: “Mảnh đất này trồng lúa không xong, chăn nuôi cũng không ổn. Phát triển các ngành kỹ thuật sao? Lãng phí lắm. Sài Gòn nằm ở trung tâm của Nam bộ, thuận tiện giao thông. Lại có hai cảng lớn là Sài Gòn và Bến Nghé. Như vậy, thuận tiện nhất là biến nó thành thiên đường của thương nhân”.

Chính phải Sài Gòn có vị trí đắc địa. Phía nam là vựa lúa của cả miền nam Trung bộ và Nam bộ. Phía bắc là vùng Biên Hòa, Đồng Nai với nhiều làng nghề, đồng cỏ chăn nuôi. Nó lại sở hữu hai bến cảng lớn là Sài Gòn và Bến Nghé, thuận lợi cho thương thuyền các nước cập bến. Bởi thế, nói như ông, “biến nó thành thiên đường của thương nhân” là biện pháp tốt nhất.

Theo như con đường ông vạch ra, hai chàng thanh niên trẻ tuổi, tài năng Phạm Thái và Phan Huy Chú đã chỉnh sửa lại thiết kế ban đầu của mình. Sau khi thành hình, Sài Gòn chỉ có bốn quận. Sau những gợi ý của Duyệt, họ lại cho thành lập những vùng đệm với chức năng khác nhau. Chúng bao gồm: Khu chuyên dùng để buôn bán các mặt hàng cao cấp; khu bán vải vóc; khu bán lúa gạo và nông sản; khu đặt các trung tâm giải trí như nhà hàng, hí viện. Các khu này cũng được đặt thành bốn quận theo thứ tự năm, sáu, bảy, tám và đặt ở trung tâm thành phố.

Bộ mặt của một quốc gia đâu thể lấy sự thành công của một địa phương như Sài Gòn đánh giá là đủ. Nó là sự tổng hoà của rất nhiều yếu tố thể hiện ở các phương diện khác nhau. Và bộ mặt đó cũng đâu phải chỉ toàn là ưu điểm mà vẫn phải tính vào đó cả những khuyết điểm của đất nước.

Dưới sự điều hành của triều đại mới, điều dễ nhận thấy nhất chính là vấn đề an ninh. Phải nói, bộ an ninh làm việc vô cùng hiệu quả. Mỗi tỉnh thành đều có một sở cảnh sát với ít nhất là năm trăm cảnh sát. Riêng ba thành phố lớn nhất là Thăng Long, Phú Xuân và Sài Gòn, quân số cảnh sát lên tới một nghìn năm trăm người. Ngoài ra, cả nước còn có ba đội cảnh sát đặc biệt với quân số chỉ có ba mươi người mỗi đội, đặt ở ba miền riêng biệt. Đây cũng chính là lực lượng cảnh sát cao cấp và tinh nhuệ nhất. Tuy quân số ít ỏi nhưng mỗi cảnh viên là một nhân tài thực sự. Họ chuyên phá những vụ án đặc biệt nghiêm trọng cũng như bẻ gãy tất cả những âm mưu chống phá. Bởi sự hoạt động hiệu quả của bộ an ninh, lê dân cảm thấy rất thoải mái trong cuộc sống. Họ không còn phải ngày lo đêm nghĩ cho sự an toàn của chính mình. Ngay cả những vụ trộm cướp vặt cũng chỉ rất ít.

Thành công lớn tiếp theo chính là trong việc phổ biến chữ viết. Qua ba năm, trừ những cụ già đã quá lớn tuổi, giờ đây, ai ai cũng đã biết đọc, biết viết. Có công lớn nhất trong việc phổ biến chính là những người tu hành. Một điều thật đáng ngạc nhiên, sáng tạo ra hệ thống chữ Quốc ngữ là những người Thiên Chúa giáo nhưng phổ biến nhanh nhất và nhiều nhất lại là những Phật tử. Thật ra thì điều này cũng rất dễ hiểu. Phật giáo vốn được truyền bá vào Việt Nam từ lâu, rất lâu đến nỗi không mấy ai biết rõ là từ khi nào. Số lượng Phật tử lại vô cùng đông đảo, chùa chiền, đình miếu lại nhiều. Bởi thế, khi hai tôn giáo này nhận được sự khích lệ của triều đình, họ lập tức hưởng ứng với việc mở những lớp hoc ngay trong nhà thờ, chùa miếu. Thế nhưng, những người Thiên Chúa giáo lại đi xa hơn khi họ chủ động mở ra các trường học mới từ trường nuôi dạy trẻ đến các trường cao trung. Chưa hết, ba dòng truyền giáo lớn nhất là dòng Tên, dòng Dominic, dòng Chúa Cứu Thế lại cùng nhau mở một trường đại học rất lớn đặt ở Sài Gòn với đủ các ngành đào tạo và triết học, hội họa, âm nhạc.

Góp phần vào việc nâng cao dân trí còn có sự cống hiến của bộ văn hoá. Họ cho thành lập một cơ quan mới, chính là báo chí. Đương nhiên, khái niệm phát hành báo chí đến từ sự gợi ý của Toản. Hơn ai hết, anh hiểu rất rõ tác dụng tuyên truyền của các tờ báo. Đây là cách thức nhanh nhất để các quyết sách của triều đình đến được với người dân. Các tòa báo thi nhau ra đời. Các tin tức truyền tải ngày càng nhiều hơn. Ban đầu, kể cả những sự kiện nhỏ nhặt như nhà anh Sáu mất con gà hay nhà chị Bảy có đám cưới cũng đều được đưa lên. Sau này, những tin tức đại loại như thế dần bị loại bỏ. Kỹ thuật in mộc bản lúc này không còn kịp đáp ứng nhu cầu nữa. Nhờ sự tiến bộ của ngành luyện kim và đúc kim loại, những bản in bằng gỗ dần mất đi chỗ đứng. Thay vào đó là những con chữ bằng đồng cùng máy in dập được chế tạo và sử dụng rộng rãi. Các xưởng in cũng từ đó mà sinh ra.

Vào lúc này, các cỗ máy hơi nước đã được phát minh và sử dụng rộng rãi ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ. Giờ đây, chúng cũng bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Chính điều này đã tạo nên một sự cách mạng thật sự khi mà chúng được áp dụng ngày càng nhiều. Những nhà máy dệt lớn, những nhà máy chà gạo lớn cũng áp dụng loại công cụ mới này. Đặc biệt hơn, một vài du học sinh còn đề xuất ý tưởng đặt máy hơi nước lên các con thuyền để thay thế hệ thống buồm hiện nay như các nước châu Âu và người Mỹ đang thử nghiệm. Rất nhanh, đề xuất này được thông qua và khuyến khích thực hiện. Khác với các nước khác, việc nghiên cứu đều có t.ư cách cá nhân. Toản đã ký quyết định cung cấp kinh phí cho những nghiên cứu này và giao cho Bộ Khoa học tiến hành thực hiện. Anh hy vọng, sẽ nhanh thôi, những chiếc tàu thủy sẽ xuất hiện và làm thay đổi bộ mặt của hải quân. Những con thuyền lớn chạy bằng động cơ hơi nước sẽ ngang dọc trên các con sông. Hay tham vọng hơn, anh muốn Việt Nam là nước đầu tiên sở hữu những chiến thuyền chạy bằng loại động cơ này. Nhưng điều đó muốn xảy ra thì cũng cần phải đợi vài năm nữa.

Ba năm trôi qua cũng chính là lúc mà hạm đội thứ t.ư thành hình với ba chiếc chiến hạm Định Quốc mới. Cũng trong thời gian này, số chiến thuyền kiểu cũ của miền Nam ngày trước vốn không còn phù hợp với tình hình mới cũng đã được thanh lý hoàn toàn. Nhóm người nồng nhiệt nhất trong việc mua lại chúng chính là những thương nhân người Việt. Tại sao lại không phải là người gốc Hoa hay các nước khác? Hoá ra lý do vô cùng đơn giản, đó là giá cả rẻ. Vả lại, sở hữu chiến thuyền cũng là vấn đề khá nhạy cảm đối với an ninh quốc gia. Dù người Hoa có muốn định cư mãi mãi ở Việt Nam thì vẫn là người ngoài. Bởi vậy, Toản ưu tiên những chiếc tốt nhất cho thương nhân Việt và cũng dành cho số lượng nhiều nhất. Chính hành động bán thuyền này đã đem lại một số tiền khổng lồ cho ngân khố. Nhờ đó mà Toản có thể phóng tay cải cách mà không cần quá lo lắng về tài chính.

Ngoài ra, cũng cần phải nói đến sự thành công trong việc thực hiện chính sách ruộng đất vốn được nhà Tây Sơn cho tiến hành ở miền Bắc. Giờ đây, nhiều hộ gia đình đều có ruộng đất để cày cấy, trồng trọt hay chăn nuôi. Họ không cần sở hữu ruộng đất của riêng mình. Bởi lẽ, họ có thể thuê lại đất để trồng trọt. Hoa lợi họ thu được cũng không còn bị tước đoạt bởi giới địa chủ hay phải nộp tô thuế nặng nề nữa. Thay vào đó, họ chỉ cần trả tiền thuê đất hàng tháng theo biểu giá được quy định thống nhất và nộp thuế mười phần trăm trên tổng hoa lợi mà thôi. Cũng có một số chọn con đường khác. Họ vẫn làm thuê cho các chủ đất, các công ty lương thực và nhận lương hàng tháng. Và số tiền mà họ nhận được cũng đủ giúp trang trải cho cuộc sông gia đình. Bởi lẽ bộ Tài chính đã ra quyết định về mức lương thấp nhất phải trả cho tất cả các hoạt động thuê mướn nhân viên. Phải nói, quyết định này ban đầu bị phản đối rất dữ dội mà nhiều nhất là giới địa chủ. Tuy nhiên, khi được biết mình sẽ được hỗ trợ rất nhiều như được tính tiền lương vào chi phí sản xuất và giảm thuế, họ bắt đầu thôi tẩy chay. Tất cả những điều đó đã làm cho bộ mặt nông thôn cũng thay đổi gần như hoàn toàn. Người nông dân nghèo khổ không còn phải lo lắng vì phận nghèo như ngày xưa nữa. Mỗi gia đình đều có sở hữu cho mình một căn nhà khang trang với mảnh vườn nhỏ xinh.

Nói như thế không có nghĩa là sẽ không có những khuyết điểm. Đầu tiên phải kể đến mặt trái của việc đô thị hoá quá nhanh. Sự xa hoa phù phiếm chốn thị thanh đã khiến rất nhiều người di cư đến những thị trấn và thành phố. Chính điều này đã tạo nên áp lực về nhà ở cho cơ quan chưởng quản. Cũng may, Việt Nam lúc này đất rộng người thưa nên áp lực này chưa phải là vấn đề lớn. Nghiêm trọng nhất là về cái ăn, cái mặc. Mức sống ở thị thành đương nhiên cao hơn ở miền quê. Nhưng đi kèm với nó chính là chi phí đắt đỏ. Những người bỏ quê lên đây cũng phải vất vả mưu sinh. Có người chuyển sang buôn bán, cũng có người chọn làm công nhân cho các nhà máy, các công ty. Tuy nhiên, không phải ai cũng có cái duyên buôn bán và số lượng việc làm cũng không có nhiều. Sau một thời gian, những người thất nghiệp do rời bỏ ruộng đồng để đến với thị thành ngày càng nhiều. Con đường duy nhất dành cho họ chính là phải tất tả quay về quê.

Cũng chính bởi tốc độ đô thị hoá quá cao mà hiện nay, rừng rậm trên cả nước bị mất dần đi. Chưa hết, sản lượng gỗ cũng tăng cao làm cho việc phá rừng cũng hết sức nghiêm trọng. Là người đến từ thế kỷ hai mươi mốt, Toản quá hiểu tác dụng của cây xanh và tác hại của việc mất rừng. Giải quyết bài toán khó này quả là một việc đau đầu. Cuối cùng, anh chọn một giải pháp khá an toàn. Đó là khoanh vùng những khu rừng không thể bị xâm phạm. Theo đó, cả nước chỉ được phép khai thác tối đa một phần năm diện tích rừng hiện tại, khu vực còn lại chính là rừng cấm. Tất cả những ai dám khai thác gỗ trong khu vực cấm đều bị bắt giam. Nếu khối lượng gỗ bị khai thác vượt quá giới hạn ở đây sẽ bị kết án tử hình. Ngoài ra, luật khai thác nơi những khu rừng cho phép cũng quy định ai chặt một cây sẽ phải trồng bù ba cây con cùng loại vào đó. Toản còn chấp nhận giao khoán đất rừng cho dân khai thác nếu họ chịu cam kết chăm sóc và trồng mới cây rừng. Ngoài ra, anh còn hạ lệnh cho mỗi công xưởng, nhà máy phải có trồng cây xung quanh. Chưa hết, trên mỗi con đường, cứ mười mét phải trồng một cây me. Tác dụng của việc này được lý giải rằng để tạo bóng mát và trang điểm cho đường phố. Nói như vậy bởi lẽ, khái niệm ô nhiễm môi trường giờ này nói ra cũng không có ai hiểu.

Vậy là chỉ trong hơn ba năm ngắn ngủi, bộ mặt đất nước đã có sự thay đổi to lớn. Nếu xét theo tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp thì Việt Nam hiện đang là một nước Công – Nông nghiệp đang phát triển. Bởi lẽ, cả nước đang có sự chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp với ngành chủ lực vẫn là nông nghiệp nhưng công nghiệp lại đóng vai trò đầu tàu kinh tế. Còn nếu xét trên bình diện kinh tế thì Việt Nam được xếp vào nhóm nước Công – Thương nghiệp. Ấy là xét theo hướng phát triển mà vị vua trẻ muốn đất nước mình trở thành một trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới trong tương lai.

Cứ như thế, sự lột xác từ một nước nhược tiểu, không ai biết đến thành một cường quốc của Việt Nam đã dần định hình. Phải nói Quang Toản rất may mắn khi mình trở thành vua và Việt Nam vẫn đang là một nước quân chủ chuyên chế. Mọi ý muốn của anh đều được thi hành triệt để. Nếu đổi lại, Việt Nam là một nước t.ư bản hay xã hội chủ nghĩa sau này thì rất khó để những thay đổi này thành hiện thực. Nói thế cũng vì khi ấy, mỗi quyết định của anh dù đúng hay sai cũng phải qua nhiều tầng chất vấn và phủ quyết. Những gì anh đang làm đây chính là nền tảng cho một thể chế tiến bộ hơn trong tương lai và phù hợp với Việt Nam lúc này, Quân chủ lập hiến theo hướng hiện đại.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top