Cảnh Thịnh Đế tân truyện - Ngô Thu

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 10: Nguyễn Ánh động binh

Chương 10: Nguyễn Ánh động binh

Phủ Định Tường, thành Gia Định ngày 13 tháng 7 Âm lịch

- Báo! Khải bẩm Hoàng thượng! Có tin hỏa tốc năm trăm dặm của Bình Tây Tham Thắng Tướng quân Võ Tánh.

- Mau trình!

Nguyễn Ánh tiếp nhận thư tín hỏa tốc từ tên lính giao liên. Trong thư chỉ vẻn vẹn mấy chữ:

“Ngày 5 tháng 7, Tây Sơn Cảnh Thịnh tế thiên. Hiện tượng lạ. Dân tâm quy phục. Thất hổ tướng tại Phú Xuân. Cơ hội cuối chiếm Phú Yên”.

Đọc xong mẫu thư tín, Nguyễn Ánh chau mày. “Cho người mời Tả quân Lê Văn Duyệt vào đây gặp Trẫm”.

Mẫu thư tín chỉ vẻn vẹn mấy chữ. Song, với Ánh, đây vừa là tin vui, vừa là tin dữ. Ánh hiểu, Thất hổ tướng tập trung ở Phú Xuân có nghĩa Phú Yên hiện đã nằm trong túi. Tuy vậy, Ánh cũng hiểu mình từ nay đã có thêm một đối thủ khó xơi.

“Khải bẩm! Tả tướng quân xin gặp” – “Cho mời”

Lê Văn Duyệt thân cao bốn thước, vai hùm, lưng gấu. Đôi hàng chân mày dày, rậm, hơi xếch nổi bật trên gương mặt gầy guộc. Mỗi bước chân đi đều thẳng thành một hàng, tăm tắp và đều nhau. Cước bộ ung dung nhưng hữu lực. Ông tiến vào thư phòng rồi cúi lạy.

- Thần nghe nói mới có tin hỏa tốc của Võ Tánh Tướng quân. Chẳng hay sự tình có biến thế nào mà Hoàng thượng triều thần gấp như vậy?

- Khanh xem đi. – Nói rồi Ánh chuyển bức thư tín sang cho Duyệt.

Trầm ngâm hồi lâu, Duyệt lên tiếng:

- Khải bẩm! Quả như Võ Tánh Tướng quân nhận định. Đây đúng là cơ hội cuối để đánh chiếm Phú Yên.

- Khanh nói xem.

- Khải bẩm. Lúc này, Thất hổ Tây Sơn đang tập trung tại Phú Xuân. Thần nghĩ, lúc này chúng đang có một buổi hội quân hết sức cơ mật. Tướng giữ thành Phú Yên thần nghĩ lúc này có lẽ là Nguyễn Quang Huy. Quân ta hiện đang tập trung hơn một vạn quân ngoài thành năm mươi dặm. Thiết nghĩ, với tài cầm quân của Võ Tánh, chiếm thành không khó. Tuy nghiên, Phú Yên thành cao, hào sâu, Nguyễn Quang Huy tuy là tướng trẻ nhưng lại có tài. Không phải là không có lý do mà tướng Nguyễn Văn Hưng tin tưởng giao lại thủ thành. Tánh muốn thắng cũng được nhưng cũng là công địch một vạn, tự tổn tám trăm.

- Vậy theo ý khanh thì như thế nào?

- Theo ý thần. Chúng ta chia binh hai đường. Một mặt, Võ Tánh đem quân quấy nhiễu, tuyệt không công thành khi chưa dụ được Huy xuất thành. Mặt khác, phái hai chiếc tàu Đồng do Nguyễn Văn Thắng chỉ huy, tiến đánh Quy Nhơn.

Nguyên Nguyễn Văn Thắng là viên Đại úy Chaigneau người Pháp do Hoàng tử Cảnh mời về cùng hai chiếc tàu đồng. Về đến Việt Nam, để dễ bề làm việc y đổi tên thành Nguyễn Văn Thắng.

- Khi đến cửa biển Thị Nại, – Duyệt tiếp – Thắng đánh mạnh vào, đồng thời phát pháo lệnh báo cho Võ Tánh. Quân Tây Sơn lúc này sẽ phải kéo binh từ Phú Yên ra ứng cứu Quy Nhơn vì đây là thành gần nhất. Lúc đó, quân của Tánh sẽ dễ dàng chiếm Phú Yên.

- Rồi sao nữa? Khanh nói tiếp đi.

- Sau khi hạ thành, Võ Tánh Tướng quân sẽ phát pháo lệnh. Nguyễn Văn Thắng sẽ ra lệnh triệt thoái để bảo toàn lực lượng. Ta và giặc Tây Sơn phân chia chiến tuyến ở hai bên đèo Cù Mông.

- Trẫm lại nghĩ khác. Sau khi hạ thành, Võ Tánh tiếp tục bắc tiến, vượt đèo Cù Mông, đánh thẳng Quy Nhơn. Quân ta hai đường đánh úp Quy Nhơn không phải hay hơn sao?

- Vạn lần không thể. Thất hổ Tây Sơn tuy không về kịp ứng cứu Phú Yên nhưng chắc chắn kịp đến Quy Nhơn. Hơn nữa, với hai chiếc tàu đồng, chưa chắc ta đã thắng được Tây Sơn lúc này với hai chiếc tàu cấp Định Quốc.

- Hai chiếc không đủ thì ba chiếc. Phái thêm tàu Phụng do Đại úy Vannier phối hợp với Thắng. Đồng thời, khanh cũng mang thêm năm nghìn quân hỗ trợ cho Tánh.

- Hoàng thượng… ta còn phải bảo toàn lực lượng, không thể tung hết chiến lực ra.

- Khanh không cần nói nữa. Khanh có biết tại sao ta tung hết lực lượng ra không?

- Thần ngu muội, không hiểu được.

- Vì một người. Nguyễn Quang Toản. Nghe đồn hắn làm phép giữa chính điện. Trẫm không tin vào phép thuật. Trẫm tin hắn có một phương pháp nào khác. Chứng tỏ hắn tuy nhỏ nhưng là người có tài. Giờ đây, hắn mới thu phục được dân tâm. Nếu để hắn có đủ thời gian, Trẫm không thể ngủ yên.

- Thần, minh bạch.

- Vậy, khanh hãy lui về chuẩn bị đi.

Hai ngày sau, Tả quân Lê Văn Duyệt xuất thành, mang theo năm nghìn tinh binh, ngày đêm không nghỉ, tiến đến hội quân với Võ Tánh cách ngoại thành Phú Yên năm mươi dặm.

Cùng lúc, Ánh lại sai Nguyễn Văn Thắng đem hai nghìn quân trên hai chiếc tàu đồng theo đường biển tiến đánh Quy Nhơn. Lại nữa, Ánh sai Vannier đem theo một nghìn quân trên chiếc tàu Phụng khởi hành sau đó một ngày tiến về Quy Nhơn. Ý định của Ánh rất rõ ràng. Y không muốn nhà Tây Sơn biết mình đã tung hết vốn cho trận này. Đồng thời, tàu Phụng xuất hiện sau khi chiến sự nổ ra cũng sẽ là đòn bất ngờ.

……………….

Ngày 17 tháng 7, bên ngoài thành Phú Yên năm mươi dặm. Hai người đàn ông đứng trên đỉnh núi Nhạn, hướng cái nhìn về phương Bắc ở xa xa.

- Tả quân, ông nghĩ sao về lần xuất binh này của nhà vua?

Hỏi là người đàn cao lớn. Thân cao bốn thước chín, lưng dài, vai rộng, uy nghi trong bộ giáp trụ màu đỏ, nổi bật giữa muôn người.

- Chỉ e... Hoàng thượng lần này sẽ... thương gân động cốt mất thôi.

- Ý ông là...

- Thất bại. Hơn nữa lại tổn thất rất lớn.

- Ài... Tôi tin vào cách nhìn của ông. Nhớ năm đó, nếu không có ông, tôi đã bị Nguyễn Lữ bắt được ở Gia Định rồi, lại nhờ ông cầm cự, Hoàng thượng mới tạm lánh ở hải ngoại thành công.

Dừng lại một lúc, ông lại hỏi:

- Theo ông, ta phải làm thế nào?

- Lệnh vua khó cãi. Biết là sẽ chết, ta cũng phải tiến quân. Ông xem. Phú Yên là một thành nhỏ. Nhưng đứng từ đây vẫn nhìn thấy tường thành của nó. Quả không hổ là tiền đồn vững chắc của giặc Tây Sơn. Trong thành có khoảng bảy nghìn tinh binh, lại do tướng Huy trấn thủ, có thể nói là bất khả công phá.

- Ông nói đúng. Tướng Huy tuy trẻ nhưng tài còn trên cả tướng Hưng. Tôi từng ba lần phái người khiêu chiến. Kết quả, cả ba lần đều thảm bại, lại chết mất ba tùy tướng. Chờ chúng ta là Hỏa Hổ đặt ở hàng trăm lỗ châu mai. Không thể dùng thang dây leo tường. Chỉ còn cách dùng trục phá thành. Nhưng ông xem. Phía trước hào sâu nửa trượng, lại cắm đầy chông gai.

- Tôi bảo ông này. Tối đến, ông sai người đứng từ xa, bắn hỏa tiễn vào thành. Cứ cách một canh giờ lại bắn một đợt. Tuyệt đối không công thành. Ta liên tục làm trong ba ngày, chờ tín hiệu của Nguyễn Văn Thắng. Đó là lúc tốt nhất để hạ thành.

- Còn sau đó?

- Nghe lời tôi. Chỉ đánh nghi binh ở đèo Cù Mông, không được vượt đèo. Chắc chắn nhà Tây Sơn lúc này sẽ bỏ thành Quy Nhơn, nhân lúc chúng ta tập trung vào Quy Nhơn mà xua đại quân tái chiếm Phú Yên, kẹp quân ta vào giữa, ép chết chúng ta trong thành Quy Nhơn.

Suy ngẫm một chốc. Võ Tánh chợt đổ mồ hôi lạnh dọc sống lưng. Khả năng này là rất lớn. Địch có thể bố trí phục binh ở đèo Cù Mông, làm tiêu hao binh lực ta. Đồng thời, địch còn phái một cánh quân khác theo hướng Tây Nguyên, vòng qua đèo Cù Mông, tập hậu. Thế này thì không ổn rồi

- Thế Hoàng thượng hỏi thì sao? Cả tôi và ông lúc đó sẽ phải bêu đầu.

- Thân này có chết thì đã sao? Cả đời tôi tận trung, trời cao chứng giám. Chúng ta cũng cho vượt đèo nhưng chỉ cho từng đợt mà thôi. Cái chính là để bảo toàn lực lượng cho Hoàng thượng. Tôi chỉ e... Lúc đó Hoàng thượng cũng không còn tâm t.ư nào để xử quyết tôi và ông đâu.

Đúng nửa đêm ngày 17 tháng 7, Võ Tánh sai cung tiễn thủ đứng trên một ngọn đồi cao bắn liên tục những mũi hỏa tiễn được trợ lực bởi những thanh thuốc nổ vào thành Phú Yên. Mũi tên đầu tiên rớt xuống cũng là lúc báo hiệu trận chiến đầu tiên giữa hai con rồng Đại Việt chính thức bắt đầu.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 11: Trận chiến thành Phú Yên

Chương 11: Trận chiến thành Phú Yên

“Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”, đó là điều người ta thường thấy trong bất cứ cuộc chiến nào. Đặc biệt là dưới tình trạng hai phe tham chiến có binh lực tương đương. Có lẽ trận chiến mấy ngày nay dưới chân thành Phú Yên xem ra là kỳ lạ nhất. Không có tiếng trống trận giòn giã. Không có tiếng la hét vang trời. Không thấy hai phe dàn trận đánh nhau. Cũng không có thương vong cho cả hai phe. Chốc chốc, người ta chỉ thấy mưa tên bay rợp trời, đi kèm với nó là lửa. Cứ như vậy kéo dài đến nay đã năm ngày. Ba hôm đầu tiên, người ta chỉ thấy mưa tên xuất hiện vào ban đêm. Hai hôm nay lại ngược lại, ban đêm lại thật yên tĩnh, chẳng bù với ban ngày.

Trời mùa hè ở mảnh đất miền trung rất khắc nghiệt. Từng đợt gió mùa Tây Nam xuất phát từ Hạ Lào vượt qua dãy Trường Sơn mang theo cái nóng hầm hập. Cả thành Phú Yên oằn mình dưới cái nóng như đổ lửa từ những cơn gió, từ mặt trời trên cao và từ những đợt mưa tên lửa.

Anh thanh niên đi đi lại lại giữa căn phòng chỉ huy. Mồ hôi trên lưng nhễ nhại. Chốc chốc anh lại chửi rồi lắc đầu, lại đi đi lại lại. Sự việc cứ thế lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn bất tận.

- Cái đám giặc Ánh ôn dịch. Chúng bây hành hạ ta năm ngày nay chưa đủ hay sao? Cớ gì vẫn chưa phát binh công thành? Bây dư gỗ làm tên lắm à. Một lũ biến thái.

- Huy tướng quân hãy bình tĩnh.

- Bình tĩnh cái nỗi gì? – Anh thanh niên là vị tướng trẻ Nguyễn Quang Huy, không giấu được vẻ gắt gỏng. – Quân sư, ông tính xem chúng đang có gì trong hồ lô? Cứ bắn rồi lại trốn. Thật không xứng là hảo hán.

- Có lẽ chúng đang muốn hành hạ tinh thần chúng ta. – Ngô Thì Nhu lên tiếng. – Nhưng thật không hợp với thường quy. Lẽ ra chúng phải tấn công rồi khi thấy tinh thần của ta đã rệu rã chứ.

- Thì đó. Chẳng hiểu chúng nghĩ ra cái quái quỷ gì.

- Có lẽ chúng đang chờ. Còn chờ cái gì thì chưa biết.

- Thế triều đình có động tĩnh gì không?

- Đô đốc Tuyết bảo chúng ta cứ áng binh bất động chờ đợi. Anh tôi thì lại bảo cứ để chúng bắn tên cho đã đi, giặc Ánh giàu mà. Tôi cũng chưa hiểu bên trên nghĩ gì nữa.

- Thật là. Cái trò chơi này kéo dài đến bao lâu đây. Muốn đánh thì đánh đại cho rồi. Ài… hành hạ ta đến khổ.

“Báo… Có tin từ Phú Xuân”, tên lính giao liên cầm một phong thư hớt hơ hớt hải chạy vào. “Đưa ta xem. Được rồi, ngươi ra phụ mọi người cứu hỏa đi”

Đọc thư, Huy lắc đầu, lại tỏ ra khó hiểu. Anh chìa bức thư ra.

- Ông Nhu, ông xem thử đây là ý gì? Hoàng thượng dạy ta xuất thành giao chiến. Rồi lại bảo trá bại, chạy về, không cần nâng cổng thành lên, sau đó lại rút về chân đèo Cù Mông là sao?

Tiếp lấy bức thư, gương mặt Ngô Thì Nhu tỏ ra đăm chiêu. Một lát sau, mắt y bừng sáng như hiểu ra.

- Ha… ha… ha… Hoàng thượng cao minh. Giặc Ánh kỳ này thảm rồi.

- Ông nói vậy là sao?

- Anh xem, – trả bức thư cho Huy, Nhu tiếp. Trong thư, Hoàng thượng bảo chúng ta trước sơ tán dân chúng trong thành, lại bảo chúng ta rút về cố thủ ở đèo Cù Mông chờ lệnh. Trước đó, có người lại thấy hải đội của giặc Ánh xuất hiện ở vùng biển Diên Khánh. Rõ ràng Hoàng thượng muốn đốt thành.

- Đốt thành? Tôi chưa rõ.

- Này nhé. Giặc muốn tiến binh vào đánh Quy Nhơn, quân ta phải phái binh cứu viện. Ông nghĩ viện binh ở đâu gần nhất? Là chúng ta. Khi đó, Võ Tánh lại xua quân truy đuổi. Lúc này, nếu chúng ta chống lại, thành Quy Nhơn không được cứu viện kịp thời, tất mất. Nếu ta không chống mà chạy về cứu viện, giặc đuổi giết, ta chắc chắn sẽ tổn binh; đến khi về tới Quy Nhơn thì chả còn mấy mống; giặc lúc này hai đường giáp công, Quy Nhơn cũng mất.

- Vậy đây là chết chắc. Ông nói giặc Ánh thảm là thế nào? Tôi không hiểu.

- Ông nghe tiếp. Rõ ràng Hoàng thượng muốn bỏ thành Quy Nhơn cho giặc. Nhân tiện ép Thái Đức Hoàng đế thoái vị. Quân ta lại vòng qua theo ngã Tây Nguyên, tái chiếm Phú Yên lúc này không còn binh do giặc đã truy đuổi anh và tôi. Tôi nghĩ cánh quân này ít nhất cũng là Ngũ phụng thư hoặc một trong Thất hổ tướng. Sau đó, Tánh sẽ bị quân của anh và tôi phản công, lại bị tập hậu, lâm vào thế hai mặt giáp công. Ta chiến thắng, lúc này lại kéo binh về Quy Nhơn. Lúc này có lẽ Ánh đã hạ thành và trở thành ba ba trong rọ.

- Diệu kế… quả là diệu kế.

- Không phải, – Nhu lắc đầu. Đến cả tôi cũng nghĩ ra, lẽ nào Tánh lại không nghĩ ra nói chi bên cạnh còn có Lê Văn Duyệt.

- Thế ông bảo sao?

- Hoàng thượng chỉ bảo anh và tôi lui về cố thủ ở đèo Cù Mông mà không nói tiếp sẽ làm gì. Tôi nghĩ lúc này Thất hổ tướng đã có mặt ở đó. Khi đến nơi, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi. Cánh quân kia sẽ thế chỗ chúng ta, dụng kế “gậy ông đập lưng ông” hỏa thiêu thành Phú Yên. Xong xuôi đâu vào đấy, chúng ta mới kéo binh về Quy Nhơn. Đây mới là diệu kế.

- Hay… hay… hay… – Huy nói liền ba tiếng hay – ai bảo Hoàng thượng của chúng ta trẻ người non dạ. Quả là “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Tôi đã thấy hình bóng Tiên đế trong Ngài rồi.

Giữa trưa hôm đó. Chính lúc đợt mưa tên bắt đầu là lúc Cổng Nam thành Phú Yên mở ra. Huy dẫn theo năm nghìn tinh binh tiến đến nghênh tiếp quân doanh Võ Tánh. Cùng lúc, Ngô Thì Nhu dẫn theo hai nghìn binh lặng lẽ rút đi, mai phục trên đường tiến về đèo Cù Mông.

Tiếng thét xung trận lần đầu tiên vang lên. Kỵ binh của Huy xông vào trận đia quân địch tha hồ chém giết. Họ chịu đựng quá lâu rồi. Nghênh đón họ là từng hàng Kỵ mã thương của quân Võ Tánh. Mỗi đợt xung phong của kỵ binh là một tầng nhân mã ngã xuống. Năm nghìn kỵ binh nhanh chóng giảm xuống. Năm mươi, một trăm, rồi hai trăm, Huy cũng bị rớt xuống ngựa.

Thấy thế, Võ Tánh hạ lệnh vây giết. Chủ tướng đối phương ngã ngựa, đây không phải là lúc kết liễu thì còn đợi khi nào. Tiếng trống phản công vang lên, Tánh thân chinh xuất mã, xung phong chém giết.

Phần Huy, anh đã chuẩn bị sẵn một con ngựa dự phòng. Anh leo lên ngựa, lao về phía Võ Tánh. Giao đấu được ba hiệp, Huy bị Tánh đánh văng thanh ngân thương. Lúc này, trên thành phát ra một tiếng trống lệnh. Anh vội vàng quay ngựa, hạ lệnh rút nhanh về thành.

Tánh lúc này có hơi bất ngờ. Ông đánh giá Huy còn cao hơn Lê Văn Hưng. Lẽ nào dễ dàng bị mình đánh bại. Lúc này lại nghe tiếng trống lui binh trên tường thành. Tánh lại nghĩ: “Có lẽ Nguyễn Văn Thắng giờ này đã công thành Quy Nhơn. Quân Tây Sơn muốn bảo toàn binh lực, rút về để cứu viện Quy Nhơn đây mà. Lê Văn Duyệt quả tính toán như thần. Hôm nay không chiếm thành thì là lúc nào”.

Nghĩ thế, Tánh hạ lệnh truy đuổi. Ở hậu quân, Lê Văn Duyệt trầm ngâm. “Hy vọng Tánh có thể giết được Huy trước khi vào thành, bằng không…”

Song phương lúc này một lui, một đuổi, đang tiến nhanh về thành. Quân Tây sơn vượt qua Cổng thành Nam, lại một đường tiến về Cổng thành Bắc, tiếp tục tháo chạy về đèo Cù Mông. Huy cướp đường mà lui gấp gáp đến nỗi quên hạ lệnh đóng cổng thành, cứ thế một đường tháo chạy. Võ Tánh một đường thắng thế lại hạ lệnh không cần nghĩ, tiếp tục truy đuổi quân Tây Sơn.

Trên con đường độc đạo dẫn đến đèo Cù Mông, xa xa ở phía nam, bụi mù bay mù mịt. Đến một khúc quanh, Huy bảo toàn quân lúc này chỉ còn khoảng hơn bốn nghìn người tiếp tục chạy cho đến lúc gặp viện binh ở chân đèo. Phần anh xuống ngựa, một mình leo lên sườn núi bên cạnh.

Một lúc sau, truy binh Võ Tánh chạy đến. Bỗng dưng, một màn mưa tên ập xuống quân nhà Nguyễn. Cách phía sau không xa, ở đoạn giữa đoàn quân, từng tảng đá to, từng súc gỗ lớn từ sườn núi lăn xuống. Từng mảng lớn quân Võ Tánh bị đè chết. Đoàn quân bị chia cắt thành hai đoạn.

“Chết. Trúng kế rồi. Tưởng chúng muốn một đường chạy đến chân đèo mới phản công. Nguy a”. Võ Tánh giật mình. “Lui về thành. Lui về thành”. Quân nhà Nguyễn lúc này cuống cuồng vứt cả binh khí mà lui về thành. Cùng lúc, Ngô Thì Nhu dẫn theo hai nghìn quân phục sẵn từ trước, bắt đầu phản công.

Đứng trên tường thành, Lê Văn Duyệt sai người bắn tên đoạn hậu, ngăn truy binh Tây Sơn. Đợi quân Võ Tánh an toàn lui về thành, Duyệt sai người đóng cổng thành. Hai nghìn quân Tây Sơn lúc này cũng dừng lại, lui về đèo Cù Mông.

- Ông nghỉ ngơi chút đi. – Duyệt nói với Võ Tánh. Có lẽ lúc này giặc Tây Sơn đã bình an rút về đèo Cù Mông.

- Ông nói phải. Toàn quân đã mệt mỏi, ta phải nghỉ ngơi chút ít cho lại sức.

- Ông chỉ có thời gian một ngày thôi. Ở lâu tôi e sinh biến. Đã qua giai đoạn đầu tiên. Ngày mai ông cho một nhóm nhỏ quấy rối trận doanh giặc ở đèo Cù Mông. Chúng ta còn phải chuẩn bị tâm lý nghênh đón cánh quân do Thất hổ Tây Sơn đánh úp nữa.

Lại nói về quân Tây Sơn. Về đến đèo Cù Mông, Huy bất ngờ khi không phải thấy một người trong Thất hổ tướng mà những ba người. Anh tiến lên chào từng người rồi nói:

- Thật may chư vị tướng quân có mặt kịp thời. Chẳng hay chư vị dự tính đêm nay công thành, tái chiếm Phú Yên? Tôi đã cho người chôn sẵn thuốc nổ trong thành.

- Ha… ha… Không hổ sự kỳ vọng của lão Hưng. – Đô đốc Bảo lên tiếng. – Chúng sẽ không ngờ là ta sẽ mau chóng phản công đâu.

- Không dám. Tôi ngu muội, làm sao nghĩ ra kế sách này. Tất cả đều do quân sư tính toán.

- Thật không phụ lòng ta. – Thái úy Lê Văn Hưng lúc này mới lên tiếng. – Ta tin tưởng anh sẽ không phải nhất thời sốc nổi mà cãi lại Nhu.

- Anh nói vừa đúng, vừa sai. – Bảo lại nói. – Không chờ đến đêm. Lúc này Đô đốc Long và Đô đốc Lộc đã dẫn năm nghìn quân phóng hỏa thành Phú Yên rồi. Anh xem.

Nói rồi, ông chỉ tay về phương nam. Như để chứng minh cho lời ông, thành Phú Yên vang lên từng tiếng nổ lớn, khói lửa bay ngợp trời. Đứng trên đỉnh đèo Cù Mông, thành Phú Yên ở xa rực cháy như một hỏa lò cực lớn. Quả thực, quân Tây Sơn không cho quân triều Nguyễn có một phút giây nào nghỉ ngơi.

Lúc này, dưới chân thành, Đô đốc Lộc suất lĩnh hai nghìn quân, cho đại pháo liên tục khạc lửa, bắn phá tường thành. Đô đốc Long lại dẫn ba nghìn quân, vòng qua, phục giết quân Nguyễn Ánh rút chạy.

- Nguy rồi. Giặc Tây Sơn đã tính trước ta một bước. Chúng bỏ thành Quy Nhơn, đánh úp quân ta ở đây. – Lê Văn Duyệt thất thanh.

- Mau rút ra khỏi thành từ cổng Nam. Chúng không kịp truy kích đâu. Võ Tánh thét lớn giữa ba quân.

Ra khỏi thành, quân Nguyễn Ánh lại một lần nữa đụng phục binh. Đô đốc Long cho người bắn tên xối xả. Phía xa, ông lại cho Kỵ mã thương xếp thành hai hàng nghênh đón quân địch rút chạy.

Dằn co được hơn một canh giờ, Duyệt và Tánh cũng mở được một đường máu, rút chạy về thành Diên Khánh. Đô đốc Long không cho truy kích, chỉ dừng lại kiểm tra lại tổn thất.

Trận chiến này kết thúc, quân Tây Sơn toàn thắng, tổn thất gần một nghìn hai trăm người. Về phía quân Nguyễn Ánh, binh đi một vạn năm nghìn người, tàn quân lui về Diên Khánh chỉ còn gần một nửa; Lê Văn Duyệt trúng hai mũi tên trên lưng, máu thấm đẫm chiến bào, Võ Tánh cũng bị thương nặng nơi chân, không nghỉ ngơi ba tháng dứt khoát không khỏi. Quả đúng là Nguyễn Ánh đợt này đã “thương gân động cốt” rồi.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 12: Trận Xích Bích của người Việt

Chương 12: Trận Xích Bích của người Việt

***** Ghi chú của tác giả trước khi vào chương 12:

Năm 1801, Nguyễn Ánh kéo trên dưới một nghìn chiến thuyền lớn nhỏ, trong đó có năm chiếc “siêu chiến hạm” của Pháp – mang được bốn mươi sáu khẩu đại bác, mười tám chiếc khác mang được hai mươi đến hai mươi sáu đại bác tiến đánh cửa Thị Nại. Đối chiến là Đô đốc Vũ Văn Dũng với trên dưới hai nghìn chiến hạm, trong đó có ba chiến hạm khổng lồ được xem là “khủng khiếp” nhất Đại Việt (cũng có thể nói là của cả Châu Á) với sáu mươi khẩu hải pháo – Chiến hạm Định Quốc.

Lúc đầu, các chiến hạm của Nguyễn Ánh, kể cả chiến hạm được Pháp cung cấp đều bị nghiền nát trước hỏa lực cực mạnh của nhà Tây Sơn. Sau, Nguyễn Ánh dùng mưu, cho một nghìn hai trăm lính đổ bộ thành công, vô hiệu hóa 1.827 khẩu đại pháo đặt trên cảng Thị Nại. Lại nữa, Nguyễn Ánh bắt được một chiến hạm của nhà Tây Sơn, bắt được mật lệnh cùng các loại hiệu lệnh khác. Từ đó, Nguyễn Ánh cho nhiều chiến hạm nhỏ giả làm chiến hạm Tây Sơn, len vào hàng ngũ, dùng kế hỏa công đốt sạch chiến hạm của địch. Cả ba chiếc Định Quốc. Nhà Tây Sơn đại bại.

Trận chiến này được các sử gia, kể cả của Việt Nam và nước ngoài đều đánh giá là Xích Bích của Việt Nam. Về quy mô cùng với sự khốc liệt của nó còn vượt xa trận Xích Bích của Trung Quốc.

t.ư liệu trên lấy từ nhiều nguồn, bao gồm Wiki cùng một số t.ư liệu của các nhà truyền giáo Châu Âu, các sử gia người Việt.

Trong truyện này, vì Nguyễn Ánh nhận được tin Quang Toản vừa thu được lòng dân nên quyết chí thư hùng để dập tắt mối đe dọa này từ trong trứng nước. Theo đó, Ánh phái hai chiếc “Siêu chiến hạm” kể trên cùng hơn năm trăm chiến hạm khác, trong đó có mười chiếc chiến hạm cỡ trung tiến đánh Quy Nhơn. Lại phái thêm chiếc chiến hạm Phụng (cũng là siêu chiến hạm nhưng lại chuyên dùng hạm chỉ huy của Nguyễn Ánh) tiếp ứng phía sau. Trong lịch sử, quả thật lúc này Ánh cũng chỉ mới có ba chiếc siêu chiến hạm.

Đối chiến là nhà Tây Sơn (nhánh của Thái Đức Hoàng đế) với hai chiếc Định Quốc cùng trên dưới hai trăm chiếc chiến hạm khác. Mặt khác, Đô đốc Vũ Văn Dũng cũng suất lĩnh hai chiếc Định Quốc khác cùng khoảng hai trăm chiến thuyền khác đi ứng cứu, đây cũng là toàn bộ thủy quân Toản có lúc đó.

Đây là do lúc chưa xuyên việt, Toản đã từng đọc t.ư liệu về trận hải chiến khủng khiếp kia. Nay vừa thu phục được lòng dân, cậu quyết đẩy nhanh sự xuất hiện của trận đại chiến Xích Bích này.

Đây là truyện dã sử nên có nhiều chi tiết hư cấu trong đó. Mong quý độc giả thông cảm nếu thấy không vừa lòng vì sai sử sách*****

“Bình Định có núi Vọng Phu

Có Đầm Thị Nại, có Cù Lao Xanh

Em về Bình Định cùng anh”

Thành Quy Nhơn từ thời Chăm – pa được xem là Kinh đô lớn nhất của cả xứ Đàng trong với danh hiệu bất hủ “Đồ Bàn”.

Nhớ năm xưa, vua Nguyên sai con là Thoát Hoan đánh chiếm Chăm – pa. Toa Đô vâng mệnh Thoát Hoan, xua thủy quân đánh chiếm cửa Thị Nại. Tại đây, chúng đành ôm hận khi toàn quân đại bại.

Tháng Giêng năm Đinh Tỵ, Trần Duệ Tông cũng cho quân tiến đánh cửa Thị Nại. Lại một lần nữa, đầm Thị Nại nổi danh là thành trì trên biển không thể công phá. Năm đó, vua Chăm – pa là Chế Bồng Nga dùng mưu đánh tan quân Trần Duệ Tông.

Và còn nhiều chiến tích huy hoàng nữa. Đầm Thị Nại luôn là niềm kiêu hãnh của vương quốc Chăm – pa và giờ đây là của thành Quy Nhơn.

Đêm hôm nay, ngày 20 tháng 7 Âm lịch, nó lại vang danh trên toàn cõi Đại Việt.

Đầu giờ Tí, thành Quy Nhơn say ngủ trong tiếng sóng vỗ bờ. Đây đó trên mặt biển là ánh đèo leo lét phát ra từ những chiếc thuyền thúng đang câu mực. Đêm nay trời lạnh lắm. Những thợ câu mực liên tục nhấp lấy từng chén rượu mạnh để chống chọi. Chốc chốc lại vang lên những tiếng gọi nhau í ới xua tan cái vẻ tĩnh mịch của màn đêm.

- Này! Ông bạn già, hôm nay có khá không?

- Chưa được bao nhiêu. Đêm nay lạnh quá ông ạ. Lũ mực chắc cũng trốn mất rồi.

- A ha. Tôi mới được một con đây nhé. Các ông phải cố lên. Không khéo hôm nay phải thua tôi một chầu đấy.

Mưa bắt đầu rơi rả rích. Những chiếc cần câu mực dần dần dần được thu lại. Các chiếc thuyền thúng bắt đầu quay trở về bờ. Hôm nay họ gặp phải thất thu rồi. Mỗi chiếc chỉ có vài dăm con mực. Khá lắm cũng chỉ được non mười con. Tuy nhiên, với họ, bấy nhiêu cũng tạm đủ. Ở cái thời đại tranh tối tranh sáng này, cơ cực nhất vẫn là những người dân nghèo. Cái nghề dập dề trên sóng nước này mỗi năm lấy đi không biết bao nhiêu tính mạng. Thế nhưng, không làm thì biết lấy cái chi mà bỏ bụng đây.

Lộp bộp… lộp bộp… ào ào… Mưa nặng hạt dần. Trên tường thành, mấy người lính gác co ro trong những chiếc chòi canh. Họ không biết đến những nổi kinh hoàng tiếp theo đang chờ đón. Ở xa xa ngoài khơi, từng hàng chiến hạm đang lù lù tiến tới. Không đèn, không tiếng động. Chúng như những con thủy quái còn sót lại từ thời xa xưa tỉnh lại.

Ầm… ầm… từng tiếng nổ đinh tai vang lên như xé rách màn đêm. Những khẩu pháo trên các chiến hạm bắt đầu khai hỏa.

- Có giặc… có giặc… mau báo với tướng quân…

Lính gác trên thành chợt bị những tiếng pháo oanh tạc đánh thức. Họ nháo nhào chạy vội về vị trí chiến đấu trên thành lũy.

- Các pháo thủ nhanh chóng vào vị trí!

- Báo! Đã vào vị trí, đạn đã lên nòng.

- Hướng về ánh sáng đầu nòng… chuẩn bị… châm lửa…

Tiếng đại pháo xuất phát từ thành lũy ầm vang đáp trả. Mặt biển lúc này sục sôi. Giữa đêm đen vô định, độ chuẩn xác gần như không có. Từng quả đạn pháo rơi xuống biển làm phát sinh những con sóng cao quá mạn tàu.

Một loạt đạn nữa xuất phát từ những chiến hạm oanh tạc lên tường thành. Có vài quả trúng đích, song vẫn không đủ để làm vỡ công sự vững chãi trên bờ biển. Lúc này, từ mũi Phương Mai, từng chiếc chiến thuyền của nhà Tây Sơn xuất hiện, đi đầu là một chiếc Định Quốc.

Sự xuất hiện của tàu Định Quốc nhanh chóng trấn an binh sĩ Tây Sơn. Quả không hổ danh là siêu chiến hạm. Từng loạt đạn pháo xé tan đội hình của Nguyễn Ánh thành nhiều mảnh. Từ trong bóng tối, từng chiếc khinh thuyền của nhà Tây Sơn xuất hiện tiến công vào những chiến thuyền bị tách rời khỏi đội ngũ của địch.

Trên soái hạm, tướng Vannier hạ lệnh cho những chiến thuyền của mình tạm thời triệt thoái, cố gắng tránh đương cự trực tiếp với chiếc chiến hạm khủng khiếp kia.

“Liên lạc với tướng quân Nguyễn Văn Thắng, suất lĩnh chiến hạm lớn chuẩn bị phối hợp với ta đánh vào hai mạn của tàu Định Quốc. Khi chúng bắt đầu triệt thoái sau đợt thắng lợi này chính là thời điểm cáo chung”. Vannier nói với tên thủy thủ bằng giọng Việt lơ lớ. “Tàu Định Quốc lớn, hỏa lực khủng khiếp nhưng chắc chắn là tính cơ động kém hơn chúng ta”.

Trên Vọng Hải lâu, Nguyễn Bảo sai người kiểm tra lại tổn thất sau đợt tập kích của Nguyễn Ánh.

- Bẩm báo Thái tử, trận này quân ta toàn thắng, tổn thất hai khinh thuyền, ba mươi sáu binh sĩ; giặc Ánh đại bại, xuất phát hai mươi sáu chiến thuyền cỡ trung, tổn thất mười lăm chiếc, cháy ba chiếc, thương vong không rõ. – Viên tùy tướng bên cạnh báo cáo.

- Tình hình trên biển thế nào? Ngươi trình bày tiếp đi.

- Theo thám báo của ta mới thu được, giặc Ánh phái đi từ bốn trăm đến năm trăm chiến thuyền, trong đó có hai chiếc chiến hạm bọc đồng. Trận đánh vừa nãy không thấy xuất hiện tàu đồng. – Viên tùy tướng lúc này hiểu rõ tình hình hôm nay rất nghiêm trong.

- Tổn thất mười lăm chiếc so với thủy đội năm trăm chiếc thì chẳng đáng là gì, ba chiếc cháy có thể dập lửa, dùng tiếp. Đây mới chỉ là thăm dò thôi. – Quay sang viên tùy tướng, Bảo hỏi tiếp – Có tin gì của Đô đốc Đoàn Văn Cát không?

- Bẩm. Đô đốc Cát cho rằng vị trí tàu Ngô Vương mới bị lộ, sợ Ánh đề phòng nên cho đoàn thuyền di chuyển về núi Nhạn rồi.

- Cái gì? Ngu xuẩn… Y không biết bây giờ gió nam đang thổi mạnh à? Khinh thuyền bảo vệ nhẹ hơn sẽ chạy đằng trước, Ngô Vương là tàu cấp Định Quốc chậm chạm hơn sẽ rớt lại đằng sau. Lúc này khác nào đưa lưng cho địch.

Dừng lại một chốc, Bảo lại nói:

- Mau! Lệnh cho Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu suất lĩnh chiến hạm Lê Hoàn từ Ghềnh Ráng yểm trợ cho Ngô Vương mau.

- Tuân lệnh.

Cuối giờ Thân. Quả như Nguyễn Bảo đã dự đoán, chiến hạm Ngô Vương dần tụt lại phía sau. Đúng lúc này hai chiếc tàu đồng mang tên Hy vọng và Thắng Lợi lặng lẽ áp sát hai ở hai bên. Cũng phải nói thêm, lúc này, trên mặt biển, sương mù bao phủ dày đặc. Lại thêm trời rất tối, hai bên đứng cách nhau mười dặm cũng không thể thấy nhau.

Quân Nguyễn Ánh nhờ kinh nghiệm của những thủy thủ người Pháp từng phiêu du trên đại dương bao năm đang dần tiếp cận. Đại khái họ cũng không nhìn thấy đường, nhưng căn cứ vào mớn nước cùng những con sóng rẽ nước chiến hạm Ngô Vương để lại mà ước định khoảng cách. Cũng không sai biệt lắm, lúc này tàu Hy vọng áp sát với khoảng cách hai mươi dặm.

- Báo… đã đạt tầm bắn hiệu quả của đại bác…

- Báo… ba chiến thuyền bị cháy không nghiêm trong, đang tiến lên đằng sau, đang chờ lệnh tướng quân.

- Tốt lắm. Đợi đến khi ta tiếp cận khoảng cách mười lăm dặm thì cho khai hỏa. Bảo ba chiếc kia lúc đó cũng lao thẳng về chiếc Định Quốc. Các chiến thuyền khác bao vây xung quanh, đề phòng chiếc Định Quốc khác xuất hiện.

Đúng lúc này, Vannier hạ lệnh khai hỏa. Hai loạt đạn đại bác trong tầm bắn hiệu quả cùng lúc oanh tạc hai bên mạn tàu Ngô Vương. Chiếc Định Quốc trúng loạt đạn bất ngờ thoáng chốc chao đảo, đuôi tàu bốc cháy dữ dội, hàng chục binh sĩ bị thổi văng xuống biển. Tiếng la hét vang lên khắp nơi. Các thủy thủ trên tàu kinh hãi tột độ. Xưa nay, họ rất tự hào khi được ra trận. Định Quốc nổi tiếng là siêu chiến hạm đánh đâu thắng đó, là nổi ám ảnh của địch thủ. Đây là lần đầu tiên, họ nếm mùi đau khổ. Đoàn Văn Cát ra lệnh dập lửa, đồng thời mở hết tốc lực tiến về phía trước. Hàng trăm tay chèo lúc này lưng nhễ nhại mồ hôi, kiệt lực nâng mái chèo nặng hai trăm cân ra sức kéo, đẩy.

Lúc này, một trăm chiến thuyền quay đầu yểm trợ cho Ngô Vương. Dẫn đầu là năm mươi chiếc khinh thuyền. Họ kinh hãi khi nhìn thấy hàng trăm chiến thuyền xuất hiện dưới ánh sáng lờ mờ của buổi rạng đông. Dẫu biết không thể địch lại, chiến thuyền Tây Sơn vẫn quyết tử lao về phía trước. Họ biết, chiến hạm Định Quốc là tài sản lớn nhất của mình, mất Định Quốc có nghĩa Tây Sơn không thể đối kháng với đoàn thuyền hùng hậu của Ánh.

Trận chiến trên biển mỗi lúc một dữ dội hơn. Thử tưởng tượng, hàng trăm chiến thuyền lao vào nhau với tốc độ lớn nhất. Tiếng la hét xung trận, tiếng binh khí va chạm, chốc chốc lại có tiếng gỗ gãy vỡ răng rắc vang lên. Máu loang đỏ cả một vùng biển. Các chiến thuyền Tây Sơn chật vật không chịu nổi. Tốc độ chiếc Ngô Vương cũng dần chậm lại. Lúc này, chỉ có phép lạ mới cứu nổi.

Đúng lúc này, một loạt tiếng nổ lớn vang lên. Định Quốc, đây đúng là tiếng gầm của hải pháo trên tàu Định Quốc. Vannier giật mình nhìn sang mạn trái phía xa xa. Một chiếc Định Quốc khác lù lù tiến tới, cùng với nó là hơn một trăm chiến thuyền lớn nhỏ.

“Nguy. – Vannier tự nhủ – Chỉ một khắc không đề phòng mà phe ta lâm vào nguy hiểm”. Quân nhà Nguyễn còn lại hơn bốn trăm chiến thuyền thì làm gì mà nguye hiểm? Phe địch cùng lắm chỉ có hơn một trăm. Nhưng đừng quên, trong đó có một chiếc Định Quốc.

Ầm… ầm… Cùng với sự yểm trợ của những tàu nhỏ xung quanh, chiếc Lê Hoàn do Đô đốc Thiệu chỉ huy lại nhả một loạt pháo về phía chiếc Hy vọng. Thân tàu trúng đạn, lắc lư. Vannier lập tức cho tàu quay đầu, đồng thời nhả một loạt đại bác đoạn hậu.

Tàu Ngô Vương trong một thoáng được giải vây cũng lập tức trở mũi tàu, phối hợp với Lê Hoàn, tiến hành truy kích, nhân tiện quay về mũi Phương Mai. Lúc này, lửa trên đuôi tàu đã được dập tắt.

Tàu Thắng Lợi lúc này cũng nhả đạn, yểm trợ cho đồng đội. Cuộc chiến xoay chiều trong tích tắc. Lúc này, hai phương rượt đuổi đảo ngược, quân Nguyễn chạy trước, Tây Sơn theo sau. Có lẽ mọi người ngạc nhiên lắm. Tại sao với ưu thế về số lượng, quân nhà Nguyễn lại tháo chạy?

Trên đài chỉ huy, Vannier khẽ cười: “Đuổi đi… bắn đi… ha… ha… Hy vọng được bọc đồng, bao nhiêu đó thì cũng chẳng đáng là gì”. Quay sang bên cạnh, y hỏi thuộc hạ:

- Vị trí cuối cùng của Hoàng thượng mà các ngươi nắm được gần nhất là bao xa?

- Bẩm… Vị trí gần nhất có được lúc mười một giờ đêm qua. Hoàng thượng duy trì khoảng cách hai trăm dặm phía Đông Nam. Giờ này chắc cũng cách Thị Nại khoảng năm mươi dặm và tiến hành công kích thành trì rồi ạ.

- Tốt! Mở hết tốc lực, chạy về mũi Phương Mai.

Hóa ra Vannier chạy về hướng Nguyễn Ánh. Có điều lạ là không phải hàng nghìn khẩu đại pháo chờ đợi họ trên bờ sao? Nhưng Vannier rất tin tưởng Hoàng thượng của hắn, người đã từng cứu hắn trên biển trong những ngày Ánh sống lưu vong, tìm đường đến Pháp.

Truy đuổi một hồi lâu, ánh mặt trời đã ló dạng ở phương đông, xó tan đêm đen lạnh giá. Từ xa xa, mũi Phương Mai hiện ra. Binh sĩ Tây Sơn reo hò. Đây là nhà của họ, những khẩu đại bác trên bờ sẽ nhấn chìm kẻ thù dưới biển. Đoàn thuyền Tây Sơn hưng phấn, đẩy cao tốc độ truy đuổi.

Khi còn cách bờ khoảng ba mươi dặm, một loạt đạn đại bác đón chào đoàn thuyền Tây Sơn. Gì thế này? Đạn pháo không xuất phát từ thuyền địch, mà là… mà là… mũi Phương Mai. Xa xa, chiếc soái hạm Phụng của do Nguyễn Ánh thân chinh lù lù hiện ra trong tầm mắt, cũng liên tục khai hỏa. Không còn kịp nữa, tốc độ của những con thuyền quá cao, không kịp xoay sở.

Trên một trăm chiến thuyền bốc cháy. Nặng nề nhất chính là hai chiếc Định Quốc. Với thân hình đồ sộ của mình, chúng dễ dàng thu hút hỏa lực địch và hứng trọn loạt đại bác bất ngờ. Hai chiếc chiến hạm bốc cháy, từ từ chìm xuống biển, chôn vùi hàng trăm binh sĩ. Đô đốc Cát và Thiệu được binh sĩ kịp thời yểm trợ, lên xuồng nhỏ trốn thoát.

Đạn pháo tiếp tục vang rền. toàn bộ đoàn thuyền Tây Sơn giờ đây bùng cháy, bị loại khỏi cuộc chiến. Thắng lợi trong tay chỉ trong phút chốc biến mất. Điều duy nhất gây khó hiểu cho binh sĩ Tây Sơn là toàn quân bị diệt.

Tại sao chiến sự lại diễn ra theo cách bất ngờ như vậy? Hóa ra, trong lúc Vannier cho hai mươi sáu chiến thuyền khai hỏa đợt đầu tiên, y đã hạ lệnh cho ba chiếc khinh thuyền mang theo một nghìn hai trăm lính bí mật đổ bộ lên bờ. Trong âm thầm, họ đã vô hiệu hóa hơn một nghìn tám răm khẩu đại Bác trên thành. Cùng lúc này, sự xuất hiện của soái thuyền Phụng cùng hơn một trăm chiến thuyền khác dễ dàng chiếm lấy cảng Thị Nại rồi nhanh chóng phân tán đón chờ đoàn thuyền Tây Sơn quay về.

Đây chính là kế hoạch đã được định từ trước. Hai chiếc tàu đồng chỉ được dùng làm mồi nhử, dụ những chiếc Định Quốc của nhà Tây Sơn rời khỏi. Lúc này hậu quân của Nguyễn Ánh với soái thuyền Phụng như thần binh, thiên tướng áp chế và chiếm lấy tường thành.

Đại quân Nguyễn Ánh lúc này toàn thắng, tổn thất gần hai trăm chiến thuyền, quân Tây Sơn toàn quân bị diệt với hơn hai trăm chiếc cùng tổn thất hai siêu chiến hạm Định Quốc.

Với thế sét đáng mang tai, Nguyễn Ánh cho hơn một vạn binh sĩ đổ bộ, tiến nhanh về chân thành Quy Nhơn.

- Cái gì? Thị Nại thất thủ?

Trong Hoàng thành, Thái Đức Hoàng Đế bật dậy trên Long sàng, miệng thổ một ngụm máu tươi. Mấy năm nay, ông mắc phải bệnh nặng. Phần lớn thời gian của ông là nằm trên giường, sự vụ lớn nhỏ đều giao lại cho Thái tử Nguyễn Bảo.

- Thái tử con ta đâu?

- Khải bẩm... – tên thái giám run rẩy trả lời. – Thái tử đã lui về thành bố trí phòng thủ.

- Mau… giúp Trẫm mặc chiến bào… Trẫm muốn lên tường thành quan chiến.

- Nhưng… nhưng… Long thể Bệ hạ đang…

- Không nói nhiều nữa. Thái tử chưa đủ kinh nghiệm thủ thành.

Cùng lúc này, ngoài khơi Quảng Nam, một đoàn chiến thuyền với hai trăm ba mươi chiếc đang rẽ sóng tiến về Quy Nhơn. Đi đầu là hai chiếc chiến hạm cấp Định Quốc Trần Quốc Tuấn và Trần Quốc Toản. Trên soái hạm Trần Quốc Tuấn, Đô đốc Vũ Văn Dũng quay sang hỏi tham tướng Phan Văn Lân:

- Ông xem tình hình thế nào rồi?

- Theo thám tử hồi báo, thủy quân của Thái Đức Hoàng đế đại bại, tổn thất toàn bộ chiến thuyền cùng với hai chiếc Định Quốc.

- Giờ này chắc Nguyễn Ánh đang tấn công hạ thành.

- Đúng vậy. Quả thật, Hoàng thượng tính toán thời gian thật khớp. Lúc này Phú Yên đã bình định, Đô đốc Diệu đã mang mười bảy nghìn quân cùng tám mươi thớt voi chiến tiếp cận Quy Nhơn rồi. Lúc này ta không tấn công Thị Nại, trong ngoài giáp công cùng Diệu, toàn thắng là chắc chắn. Giặc Ánh bây giờ là ba ba trong rọ rồi.

- Ài! Nhiều lúc tôi không tưởng được Hoàng thượng mới chỉ là một cậu bé mười hai. Ngài đã thể hiện uy nghiêm của một đấng Quân vương và tài năng xuất chúng rồi.

Quay lại với trận chiến thành Quy Nhơn.

Đứng trên tường thành, Nguyễn Nhạc thấy lòng đắng chát. Dưới thành, quân Nguyễn Ánh với hơn một vạn người, lấy khí thế như hổ báo đang lao nhanh đến. Mặt này là nơi yếu nhất của thành Quy Nhơn. Có lẽ từ thời của Chế Bồng Nga, bao đời vua Chăm – pa và chúa Nguyễn ỷ lại vào thành trì không thể công phá – đầm Thị Nại mà không lo tu bổ chăng?

Tướng tài trong tay ông giờ đây chẳng còn mấy người, ai có thể phân ưu cùng mình đây?. Ông chợt cảm thấy hối hận, “Ngày trước tại sao mình nhất thời nóng giận đuổi Binh bộ Thượng thư Vũ Đình Tú đi. Y là một trong Thất hổ Tây Sơn. Giá mà…”

Thở dài, Nguyễn Nhạc quay sang hỏi Thái tử:

- Tình hình này, con liệu chống chọi được bao lâu đây?

- Bẩm Phụ hoàng, có lẽ… không tới hai canh giờ nữa thành ngoại sẽ thất thủ. Chúng ta chỉ còn hơn ba nghìn binh sĩ.

- Con đã cầu viện Quang Toản chưa?

- Dạ… dạ… Con nghĩ, cần gì phải cầu cạnh tên phản phúc đó nên không xin cứu viện.

Bốp!!!!! Thái Đức Hoàng đế tức giận tát vào mặt Bảo.

- Đồ ngu! Nó dù sao cũng là người trong nhà. Đánh người ngoài chớ cớ sao xua đuổi người mình? Đến lúc này mà ngươi còn tỵ nạnh với nó nữa ư? Ông trời ơi. Tại sao Trẫm lại có đứa con ngu ngốc thế này?

Dứt lời, ông lại thổ ra một ngụm máu tươi, lảo đảo xuýt ngã.

- Trời tuyệt đường Nhạc ta rồi.

- Phụ hoàng… Phụ hoàng… Nhi thần biết tội rồi. Người cũng đừng lo. Thám báo cho hay, tướng Diệu và tướng Hưng xuất hiện ở thành ngoại phía nam cách đây khoảng hơn trăm dặm. Nhi thần đã cho người chạy đi xin cứu viện, giờ này chắc cũng sắp đến rồi.

Lúc nghe những lời này, Thái Đức không những không hết buồn, lại còn cảm thấy chán nản. Ông nghĩ: “Một trăm dặm đâu có xa. Làm gì mà đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng. Quang Toản có lẽ đã biết trước, cho Diệu – Hưng hai tướng chờ sẵn rồi. Ngoài khơi kia chắc là Vũ Văn Dũng cũng đến rồi. Chúng vẫn áng binh bất động. E là…”

Ông buồn bã, quay trở về thành nội. Ngồi lặng lẽ trên Ngai vàng, trầm t.ư, ra chiều chờ đợi những gì sắp đến với mình.

Lúc này, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Huỳnh Đức lãnh ba nghìn quân tiến đánh cánh trái tường thành. Lại giao cho Nguyễn Văn Thành lãnh ba nghìn quân áp chế cánh phải. Phần mình, Ánh cùng Hoàng tử Cảnh thân chinh trung quân, tiến đánh chính diện.

Tiếng đại bác nổ, tiếng pháo công thành vang rền. Từng mảng, từng mảng tường thành rung chuyển rồi ầm ầm sụp đổ. Ánh xua quân ào ạt tràn vào thành ngoại.

Hoàng tử Cảnh tuốt gươm thỏa sức chém giết, máu tươi binh sĩ Tây Sơn thấm đẫm chiến bào vốn có màu vàng nhạt. Ở hai cánh bên cạnh, tướng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành như thiên tướng cũng vung đao gặt hái sinh mệnh binh lính thủ thành. Thế tiến công quân Nguyễn ào ào như thác lữ, không thể cản. Thái tử Bảo thấy tình thế không ổn vội dẫn thân binh chạy về thành nội.

Đúng lúc này, tiếng trống trận giòn giã vang lên. Có tiếng rống vang tận trời xanh đi kèm. Từng thớt voi chiến xuất hiện, đẩy lùi đà tiến của Nguyễn Huỳnh Đức. Phía bên kia, một đoàn kỵ binh do Lê Văn Hưng dẫn đầu, lấy tốc độ nhanh nhất khóa chặt Nguyễn Văn Thành.

Tình thế quân Nguyễn trong giây lát bỗng chuyển biến xấu. Trước cổng thành nội, từng hàng cung binh xuất hiện, rải xuống đầu binh sĩ những màn mưa tên rợp trời. Cùng lúc, Đô đốc diệu giương cao Ngân Long Đao, soái lĩnh mấy nghìn lính bộ binh lao nhanh về Hoàng tử Cảnh.

Nguyễn Ánh trong nháy mắt chợt giật mình khi thấy hai trong Thất hổ Tây Sơn xuất hiện. Bao ký ức kinh hoàng và tủi nhục hiện ra ra trong đầu ông. Cũng chính hai viên đại tướng này mấy năm trước đã cùng anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ tung hoành sa trường, ép mình phải lánh thân nơi hải ngoại xứ người.

Hoảng sợ trong lòng, Nguyễn Ánh lệnh cho ba quân chậm rãi rút lui về hướng Thị Nại. Y dự tính đại bác trên những chiến thuyền neo đậu ngoài kia sẽ yểm trợ, bắn tan tác nhà Tây Sơn. Lúc đó thì lo gì mà không đoạt được Quy Nhơn.

Đột nhiên, sau lưng Nguyễn Ánh cảm thấy nóng rát. Tiếng đại pháo lại nổ vang rền. “Quân ta chưa rút đến nơi an toàn mà. Tại sao chiến thuyền khai hỏa quá sớm như vậy?”

Ngoái đầu lại phía sau, Ánh bàng hoàng khụy ngã. “Cháy… cháy… rồi. Tại sao? Chiến thuyền của ta. Niềm kiêu hãnh của ta”

Số là trong lúc Ánh mãi mê tấn công, Vannier và Nguyễn Văn Thắng được lệnh cho chiến thuyền neo đậu ở đầm Thị Nai, đại bác phải sẵn sàng yểm trợ cho toàn quân nếu như tình hình chuyển biến xấu. Chính vì thế, mặt nước đầm Thị Nại lúc này có lúc nhúc những chiến thuyền. Chúng chen chúc đậu gần nhau. Nhìn từ trên không, đầm Thị Nại như đang được lấp đầy bằng một chiếc bè gỗ khổng lồ.

Lại nói, từ ngoài khơi, Đô đốc Dũng nhận thấy được đây là thời cơ không thể tốt hơn. Ông cho các khẩu hải pháo phối hợp với đại bác trên những chiến thuyền nhỏ vùi dập đối phương. Lửa cháy ngút trời. Hầu như toàn bộ chiến thuyền của Ánh chìm trong biển lửa. Đây có lẽ là trận thủy chiến dễ dàng nhất đời ông.

Nhìn thấy tình hình, Nguyễn Ánh biết đại thế đã mất. Y ra lệnh mở đường máu chạy về đầm Thị Nại, lên chiến thuyền chạy trốn. Thuyền địch đứng ở ngoài xa chắc cũng không kịp áp sát.

Nguyễn Ánh lúc này cùng Hoàng tử Cảnh, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành dẫn tàn quân gần ba nghìn người chạy vội lên thuyền. Hai chiếc chiến thuyền Hy Vọng và Thắng Lợi lúc này đã chìm nghỉm. Vannier và Nguyễn Văn Thắng điều khiển soái thuyền Phụng cập sát bờ đón Nguyễn Ánh rồi dong buồm chạy trốn.

Tiếng reo hò khải hoàn lúc này vang dội trong khắp thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh đại bại, đem theo bốn mươi ba chiến thuyền cùng hơn hai nghìn năm trăm tàn binh tháo chạy khỏi chiến trường được ví là trận Xích Bích của người Việt.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 13: Y Nhã và chữ Quốc ngữ

Chương 13: Y Nhã và Chữ Quốc ngữ

Đối với dân chúng thành Quy Nhơn, có lẽ họ chưa bao giờ trải qua nhiều cung bậc cảm xúc như ngày hôm nay. Trong một ngày bình thường nhất, họ đã vô tình trở thành nhân chứng cho một trong những trận chiến thảm khốc nhất trong lịch sử Đại Việt. Trận chiến này còn có một diễn biến hết sức kỳ lạ. Nó đến rất nhanh và kết thúc cũng rất nhanh. Có lẽ nếu được bình chọn, nó xứng đáng được xem là trận chiến ngắn nhất nhưng lại có quy mô lớn nhất và có một ý nghĩa hết sức trọng đại.

Giữa nội cung, Thái Đức Hoàng đế ngồi trên ngai vàng, ngước nhìn ba người mới bước vào:

- Kết thúc rồi sao?

- Bẩm Chúa thượng. Đã xong rồi. – Đô đốc Diệu khiêm cung hành lễ với Thái Đức - Chúa thượng, Người xanh xao quá.

- Không cần nói nữa, Trẫm biết phải làm gì rồi. Từ ngày hôm nay, nhà Tây Sơn sẽ không có Thái Đức Hoàng đế nữa.

- Phụ Hoàng. - Thái tử Bảo đứng hầu bên cạnh ra sức khuyên can - Mọi việc đâu cần phải như vậy.

- Có thể sao? Nếu như ngươi được như người ta thì dù có chết ta cũng không chấp nhận. - Nói đến đây rõ ràng ông có ý muốn so sánh con mình với với Toản.

Dừng một chốc, ông nói với ba người trước mặt:

- Chỉ cần hắn đối tốt với muôn dân, với xã tắc và cho các con ta một mảnh đất cắm dùi là được.

Diệu cùng hai người bạn đồng liêu cúi đầu không nói. Họ quá hiểu con người trước mặt. Nhớ khi xưa còn gọi anh gọi em. Giờ đây khoảng cách giữa bốn người, không, phải nói là giữa ba người và kẻ còn lại đã trở nên quá lớn. Lặng nhìn nhau, bao ký ức thân ái và hào hùng hiện lên trong mắt. Tất cả trôi qua như một cuộn phim quay chậm. Một lúc sau, Thái Đức khẽ mỉm cười, giọng bình thản:

- Bảo trọng nhé chiến hữu của ta.

- Chúa thượng cũng nên an lòng. - Diệu nói.

Đoạn Thái Đức Hoàng đế khe khẽ khép mắt lại. Cứ như thế, vị anh hùng áo vải bao phen khiến kẻ thù bạt vía kinh hồn giờ này bình thản ra đi.

..........

Thời gian thấm thoát trôi mau, chẳng mấy chốc đã là hai tuần sau trận thư hùng trên đầm Thị Nại. Toản lười biếng nằm dài trên bãi cỏ xanh mượt, chân vắt chéo hình chữ ngũ. Mấy ngày qua đã vắt kiệt sức Toản. Cậu lớp thì thượng triều, lớp thì phê duyệt tấu chương, lại phải vấn an hai vị Thái hậu. Rồi tập võ nữa, đến hôm nay, ngoài món Hùng kê quyền, cậu chẳng đến môn nào khác. Thật, việc làm vua cũng chẳng thú vị gì.

- Chẳng có mấy khi em được rảnh nhỉ.

Tiếng nói của người từ đằng xa đánh thức cậu. “Ồ, ra là anh à, anh ba”. Người đến đúng là Quang Bàn, là con trai thứ hai của vua Quang Trung, anh ba của Toản. Điều mà cậu hài lòng nhất ở triều Tây Sơn là không có quá nhiều lễ nghi phiền phức. Anh em trong nhà cũng chỉ gọi nhau bằng “Thứ”, chỉ có người lớn hơn một thế hệ mới được thêm chữ “Hoàng” phía trước.

- Anh vô tình đi ngang qua, thấy em nằm dài ở đây. Trốn việc phải không?

Nói một chút về Quang Bàn. Anh người dong dỏng cao, dáng thư sinh, nho nhã, lúc nào cũng nở nụ cười làm say lòng bao người con gái. Tính tình anh phóng khoáng, không câu nệ, lại hài hước. Có lần, giữa đông đảo bá quan văn võ nhân ngày giỗ Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng hậu –mẹ mình, anh còn cả gan làm mặt xấu chọc ghẹo Toản làm mọi người cười ầm lên.

- Mệt chết đi được anh à. Những lúc như thế này hiếm hoi lắm đấy.

- Vậy à? Em có thử học bắn cung chưa? Hãy để những mũi tên đưa nỗi u buồn bay đi.

Toản trố mắt nhìn anh mình:

- Anh ba này. Lắm lúc em không dám nghĩ anh là con của cha đấy. Anh văn thao võ lược, thế mà là người làm biếng nhất hạng. Giả như anh bỏ chút thời gian ra để giúp em thì tốt quá.

- Ây da… anh không thích đâu. Ra giúp em thì được rồi. Nhưng suốt ngày phải mặc mấy cái bộ quan phục đó, trông cứ lụm khụm như ông già, còn đâu là vẻ đẹp trai nữa chứ. Ha… ha…

- Biết rồi. Em biết anh không thích gò bó.

Chợt như nghĩ đến điều gì, Toản ngồi bật dậy, mắt sáng lên:

- Anh ba, nếu có một việc tốt, không phải gò bó, lại còn có cơ hội lên mặt với mấy cô em, anh có giúp em không?

- Có việc tốt thế à? Chú mày đừng ỷ làm vua rồi gạt anh nhé. Lúc đó dù thế nào anh cũng cởi quần chú ra mà đét vô mông đấy.

- Thật cả mười phần. Nhưng… thiên cơ bất khả lộ. Ha… ha…

- Thôi. Anh có chút việc, đi đây. Ông già Thiếp đang tìm em kìa.

Từ đàng xa, Nguyễn Thiếp đã nghe thấy câu nói cuối cùng của Quang Bàn. Ông chỉ cười. Ai mà giận anh chàng này được chứ. Ông cũng không ngoại lệ.

- Thần, tham kiến Bệ hạ.

- Phu tử, ngài có việc gì sao? À, không cần đa lễ thế, Trẫm không thích.

- Thần muốn bẩm lại hai việc. – Ngừng một chút, ông tiếp – Thứ nhất là việc phân chia điền thổ xong rồi. Dân chúng mỗi hộ được cấp cho mười mẫu ruộng để canh tác, lại miễn thuế đất ba năm. Hộ nào xung phong đi khai hoang sẽ được miễn thuế năm năm, giảm tô ba thành trong ba năm. Thật chẳng thể ngờ. Ý tưởng lập ra Bộ Chính trị thật là hay. Sự vụ được giải quyết nhanh hơn ba lần. Cũng nhờ có việc bỏ phiếu mà không có xích mích gì giữa các quan cả, có ghi tên trên phiếu đâu mà, ai mà biết mình “thuận” hay “chống”.

- Còn việc thứ hai?

- Việc tổ chức thi tuyển nhân tài hai tuần sau, Tông Nhân Phủ đã lo đâu vào đấy rồi. Lần này Bệ hạ dự tính chọn ra bao nhiêu người?

- Chí ít là ba trăm, Phu tử ra đề được chứ?

- Thần sẽ tận lực.

- À. Ngày mai Trẫm muốn xuất cung, trưa lại ghé nhà khanh. Trẫm muốn xem thử dân chúng nay như thế nào.

Nói lại một chút. Từ sau ngày đại chiến quân Nguyễn, Toản cùng bề tôi của mình nhanh chóng bắt tay vào cải cách. Nhờ có trận thắng lớn này, Toản có một khoảng thời gian dài quý giá để làm những điều mình muốn. Bắt đầu từ nhu cầu cơ bản nhất, “cái ăn”.

Chính sách khuyến nông, khai hoang được ban ra. Theo đó, mỗi hộ dân được cấp đất như Nguyễn Thiếp đã nói. Về phần các địa chủ, Toản khuyến khích họ lấy đất ruộng của mình “cho thuê”, hoa lợi từ việc cho thuê sẽ không cần nộp thuế, lại nữa, họ còn được miễn thuế đất năm năm.

Phải nói, tốc độ làm việc của Bộ Chính trị nhanh thật. Chỉ với hai tuần thời gian, một chính sách lớn như thế lại nhanh chóng được hoạch định và thực thi. Chả bù với cái thế giới trước của cậu. Có lẽ, chính bá quan cũng cảm nhiễm được nhiệt tình của Toản cùng với câu nói hôm nào “Các khanh chính là những người anh hùng” nên tỏ ra hăng hái cũng nên. Chưa bao giờ khí thế làm việc của các quan trong triều lại sục sôi như lúc này.

Sáng hôm sau, Toản một mình cùng tiểu Thái xuất cung. Ý định của cậu là đến thăm một nhà thờ, làm quen với một Giáo sĩ truyền giáo phương Tây. Cách nay một tuần, cậu đã sai tiểu Thái tìm mua cho mình hai cuốn sách: Tự điển Việt – Bồ – La và Phép giảng tám ngày. Mấy cuốn này chỉ được lưu truyền bán công khai giữa các nhà thờ và những người tin theo đạo Công giáo lúc đó. Cũng phải nói thêm, biết được tính chất quan trọng của chữ Quốc ngữ mà các Giáo sĩ lưu truyền lúc đó mà Toản cho bãi bỏ lệnh cấm đối với đạo Công giáo, ai muốn theo thì theo, thậm chí, có vài vị quan trong triều cũng chịu lễ Rửa tội.

Với sự thông minh của mình, tiểu Thái chẳng tốn mấy công phu mà tìm được một căn nhà thờ nhỏ ở Phú Xuân. Cậu thuyết phục vị linh mục ở đó và mua được hai cuốn sách trên. Hôm nay, chính cậu sẽ là người dẫn đường cho Toản tìm đến.

Đó là căn nhà nhỏ, vách làm bằng gỗ thông, mái lá che phủ. Bên trong, ngoại trừ khu vực bàn thờ – cậu còn biết đến cái tên khác, Cung Thánh, – bên dưới chỉ có ba hàng ghế chia làm hai dãy, có lẽ sức chứa cũng chỉ tối đa ba mươi người. Đằng sau là một dãy nhà đơn sơ, có lẽ là nơi ở và làm việc của mấy vị linh mục và thầy giảng.

Hôm nay vừa khéo là ngày Chúa Nhật theo như sự phân chia tạm thời của mấy vị tu sĩ để tiện cho việc sinh hoạt. Có một vị linh mục trong bộ áo thụng màu đen làm lễ, phía dưới là khoảng mười tám người giáo dân. Toản cùng tiểu Thái cũng tiến vào, làm dấu Thánh và dự lễ như những người khác. Sự xuất hiện của Nhà vua không gây sự chú ý của người khác, bởi lẽ không khí bên trong rất trang nghiêm và sốt sắng. Suốt buổi lễ, trừ bài giảng bằng tiếng Việt lơ lớ của vị linh mục, Toản chỉ nghe toàn bộ là tiếng Latin mà cậu chỉ hiểu câu được câu mất.

Kết thúc buổi lễ, lúc mọi người quay lai, tính ra về thì nhìn thấy Toản. Họ giật mình quỳ xuống cúi chào. Sau biến cố trong lễ Tạ tội hôm đó, danh tiếng của Toản đã nổi như cồn. Nhất là đối với các Giáo dân, họ quý mến và tôn kính vô cùng. Vì nhờ cậu mà họ không cần phải giấu giấu giếm giếm việc mình theo đạo và cũng không cần phải lén lút dự lễ mỗi tuần nữa.

Toản tiến đến, nâng từng người đứng dậy.

- Các giáo hữu cứ đứng dậy, không cần phải đa lễ như thế. Ở đây, trước mặt Người, chúng ta là bình đẳng.

- Ra Bệ hạ cũng là người theo đạo à? Hèn chi…, nhiều người khẽ xì xầm bàn tán.

- Hóa ra Bệ hạ cũng theo đạo à? – Chính vị linh mục lúc đó cũng bất ngờ.

- Cứ tạm cho là thế đi. Chỉ mong mọi người đừng lộ việc này ra. Nếu không, mọi sự rất phức tạp.

Nói thật, dù không có câu nói cuối cùng của Toản, mọi người cũng thừa hiểu tính nghiêm trọng nếu việc này lộ ra ngoài.

- Mọi người ra về đi, Trẫm muốn nói chuyện với vị linh mục này một lát.

- Vâng… mời Bệ hạ di giá đến văn phòng phía sau nhà thờ.

Sau khi phân chủ thứ và ngồi xuống, Toản mở lời:

- Thưa Cha…

- À… Tôi tên Y Nhã. Bệ hạ cứ gọi là Cha Y hay Cha Y Nhã cũng được.

Linh mục Y Nhã? Đây chẳng phải là một trong những người bị chém đầu mấy năm sau, thời Minh Mạng hay sao? Người được mang danh tử đạo?

- Ra là cha Ignasio. Cha thuộc dòng Tên đúng không?

- Sao Bệ hạ biết? – Cha Y Nhã cũng giật mình, thảng thốt, – Tôi đúng là Ignasio, dòng Tên.

- Vô tình thôi. Hôm nay con đến đây là có việc muốn bàn với cha.

Một lần nữa, khi Toản đổi cách xưng hô, vị linh mục lại tỏ ra ngạc nhiên, nhưng ông nhanh chóng trở nên vui vẻ và dễ tiếp xúc hơn.

- Con đã đọc hai cuốn Tự điển Việt – Bồ – La và Phép giảng tám ngày mà cha Đắc Lộ trước đây biên soạn. Nó làm con rất hứng thú. Hôm nay, chúng ta sẽ bàn về vấn đề này.

- Cha xem, – nói đoạn, Toản lấy ra hai tờ giấy, một tờ sao lại trang đầu cuốn Phép giảng tám ngày, tờ còn lại cũng có nội dung như trên nhưng lại do Toản viết theo thể thức thời hiện đại. – Con nhận thấy có đôi chỗ không hợp lý trong chữ viết và có cải tiến đôi chút.

Cầm lấy hai tờ giấy, cha Y Nhã có hơi run rẩy. Phải nói, chữ Quốc Ngữ lúc này còn rất nhiều phụ âm ghép như bl là tr, hay tl là ch,… Những “cải tiến” của Toản lúc này thật sự như một cuộc “cách mạng” trong mắt ông.

- Cha thấy viết như vậy có đơn giản hơn không?

- Bệ hạ quả làm tôi rất ngạc nhiên. Tạ ơn Chúa đã mang Ngài đến đây.

- Con có ý định phổ biến loại chữ viết này. Cha và các Giáo dân có làm được không?

- Được chứ, thế nhưng rất khó. Trước giờ, chữ viết này, à, chúng tôi gọi là chữ Quốc Ngữ, chỉ được lưu truyền trong nội bộ.

- Cha không cần phải lo nhiều. Các vị chỉ cần mở lớp dạy chữ thôi, phần còn lại cứ để triều ta lo liệu. Thời gian không còn nhiều, con để lại đây bảng chữ cái đã cải tiến, cha cứ nghiên cứu kỹ. Đến lúc con phải đi rồi.

- Vâng. Bệ hạ lên đường bằng an.

- À, còn việc này nữa. Cuốn Tự điển đó. Các cha hãy biên soạn lại đi, nhưng nếu được, các cha hãy thêm vào một thứ tiếng nữa, tiếng Anh. Sẽ có La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp giúp các cha. Có điều, trong nhóm biên soạn, phải đề tên ông ta vào.

- Đó là lẽ dĩ nhiên. Bệ hạ đi thong thả.

Ra khỏi khu vực nhà thờ, Toản rảo bước đến Phủ học sĩ của Nguyễn Thiếp. Trong lòng cậu thoáng vui vẻ, “vậy là xong một bước để phổ biến chữ Quốc ngữ rồi, bước tiếp theo sẽ khó hơn đôi chút, thuyết phục Nguyễn Thiếp”. Tiếc nuối duy nhất lúc này là cậu không tìm được một vị linh mục người Anh Cát Lợi nào. Bởi lẽ, người Anh lúc này đã tách ra khỏi Giáo hội La Mã mà thành lập Anh giáo, phải đến hơn một trăm năm sau mới có sự xuất hiện của một Mục sư.

Bước vào nhà Nguyễn Thiếp, không cần ông lên tiếng, Toản đã sang sảng:

- Thế nào? Hôm nay Phu tử có khỏe không?

- Nhờ ơn Bệ hạ, thần rất khỏe. Thần đã sai hạ nhân chuẩn bị ít món, cung nghinh Thánh giá từ sớm.

- Không vội… không vội… Thật ra hôm nay Trẫm đến nhà Phu tử là có việc muốn bàn. Chúng ta trước đến thư phòng nói chuyện.

Nói rồi, cậu cùng Nguyễn Thiếp đến thư phòng của ông. Đến nơi, cậu cũng đưa cho ông hai mẫu giấy. Trên mỗi tờ chỉ ghi một dòng chữ ngắn, một bằng chữ Nôm, một bằng chữ Quốc ngữ.

- Phu tử đọc được hai tờ này không?

- Tờ đầu là “Trời hôm nay rất sáng” bằng chữ Nôm, cái này không nói làm gì. Còn tờ này lại viết bằng thứ chữ của mấy người truyền giáo, thần có hiểu đôi chút, đại khái nội dung cũng như vậy nhưng có nhiều điểm rất khác với thứ chữ kia.

- Không phải đại khái. Mà cả hai tờ có cùng một nội dung. Phu tử biết thế nào về loại chữ viết này?

Nguyễn Thiếp trầm ngâm, chưa nói. Ông đứng lên, lấy ra một cuốn Tự điển Việt – Bồ – La khác và một bản ghi là “Ký tự chữ Quốc ngữ chú giải” và một bản tấu chương bìa xanh, đưa cho Toản.

- Thần thật ra đã có hai cuốn này rất lâu rồi, cũng có nghiên cứu. Thần nhận thấy thật ra loại chữ viết này rất đơn giản, lại dễ học, ai cũng dùng được. Trước, thần có soạn một bản tấu chương dự định bẩm báo Bệ hạ về việc này. Thế nhưng gần đây, sự vụ trong triều làm thần không dứt ra được nên quên khuấy đi.

“Oh my God! – Không ngờ việc dễ vậy sao?” Toản thầm mở cờ trong bụng.

- Học sĩ không hổ là học sĩ. Phu tử quả là người chu đáo. Trẫm có ý định phổ biến thứ chữ này trong toàn dân, ông thấy sao?

- Thật ra không chỉ có Bệ hạ có ý định này, trước đây cũng có người có nhưng lại không kịp thực hiện.

- Sao? Còn có người khác nghĩ đến nó sao?

- Chính là Tiên đế. Sinh thời, Người trăn trở rất nhiều. Người nói: “Dân ta nghìn năm qua bị người phương Bắc áp chế. Chữ viết cũng phải lệ thuộc họ. Trẫm có ý định tách rời sự lệ thuộc này. Trẫm muốn dân ta có một thứ chữ viết của riêng mình. Vừa hay, lúc đánh giặc Ánh ở thành Gia Định, Trẫm có gặp một giáo sĩ tên là Bá Đa Lộc. Trẫm không thích ông ta. Nhưng cái Trẫm chú ý là thứ chữ viết mà những người trong hội của ông ta biên soạn gọi là ‘chữ Quốc ngữ’. Quả là hỗn xược, lại dám dùng từ Quốc ngữ để ám chỉ loại chữ viết này. Tuy nhiên, ngẫm lại, Trẫm lại nghĩ biết đâu đây là con đường Trẫm nên đi. Nay giao lại cho khanh nghiên cứu một phen”.

Dừng một lát, Thiếp tiếp:

- Thế sự đổi dời. Bệ hạ bận trăm công nghìn việc, chưa tiện suy nghĩ thấu đáo. Ông trời lại trêu ngươi. Người ra đi quá sớm. Trước khi ra đi, Người có căn dặn thần: “Thứ chữ viết này chưa được phổ biến là tiếc nuối lớn nhất đời ta. Khanh hãy tiếp tục nghiên cứu đặng sau này phổ biến. Nhưng đó chưa đúng thời cơ. Trước mắt khanh hãy biên soạn cho xong bộ sách chú giải Hán – Nôm đã”.

- Trẫm nói thời cơ đến rồi, Phu tử có tin không?

- Bệ hạ là người rất thần kỳ trong mắt chúng quan, – Thiếp không ngần ngại nói ra nhận xét của mình về Toản. – Thần tin là Bệ hạ đã có cách. Kính mong Bệ hạ giải bày, thần xin rửa tai nghe.

- Trẫm – Toản không ngần ngại tiếp nhận lời ca tụng này mặc dù có hơi mắc cỡ – có biết một vị linh mục tên Y Nhã. Trẫm mới từ chỗ ông ta đến đây. Ông ta là người đức cao vọng trọng trong Giáo hội La Mã – Toản thật không biết có đúng vậy không hay là đến khi ông ta bị hành quyết, cả Thế giới mới biết. – Ông ta đã nhận lời cùng học trò của mình dạy cho dân chúng thứ chữ này. Phần còn lại, khó hơn là tìm cách thuyết phục chúng thần và bá tính.

- Kính mong Bệ hạ ban cho một đạo chiếu chỉ, thần nguyện thuyết phục bá quan và muôn dân trăm họ. Bắt đầu từ những sĩ tử vượt qua kỳ thi sắp tới.

- Thế thì Phu tử làm đi. Cần gì thì cứ nói, Trẫm sẽ ủng hộ. – “Trúng kế rồi nha. Ha… ha… ta giỏi quá”, Toản cười thầm trong bụng.

- Thần, lĩnh mệnh.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 14: Thuốc nổ đen và súng Điểu thương cải tiến

Chương 14: Thuốc nổ đen và Súng điểu thương cải tiến

Quay về cung, Toản cảm thấy hôm nay mình có thu hoạch lớn. “Đại công cáo thành. Ha… ha… ha… Ta thông minh quá. Phải tự thưởng cho mình thôi… Ái, chà chà… Lại tự sướng nữa rồi. Tổ phụ ơi là Tổ phụ… Di truyền bệnh cho cháu để làm chi…” Toản tủm tỉm cười một mình đoạn sai người chuẩn bị một bình rượu cùng vài món nhắm. “Giờ làm vua rồi. Cũng phải nếm thử rượu một tí chứ nhỉ”. Toản nhủ thầm. Trước đây khi còn học ở Massachusette, cậu nhiều lần từ chối chúng bạn rủ rê chè chén, chỉ tập trung nghiên cứu. Bởi vậy, cho đến bây giờ cậu vẫn chưa biết uống rượu.

Chưa đầy nửa canh giờ sau, Ngự Thiện phòng dâng lên một bàn tiệc với năm sáu món ăn và một bình rượu bên ngoài chỉ ghi hai chữ: Bàu đá.

“Ô… Không ngờ thời này đã có rượu bàu đá rồi sao? Nghe nói nó nặng lắm”. Lại nhìn mấy món trên bàn, Toản lắc đầu khẽ nói “Ai… Có mình mình mà thức ăn ê hề. Bàn này ở khu Little Saigon chắc không dưới một trăm đồng. Làm vua có khác. Ai… đúng là lãng phí mà. Hỏi sao dân mình không nghèo”.

Cầm lấy bình rượu, rót cho mình một chén. Toản đưa lên mũi ngửi. Cậu làm một động tác giống như mấy gã Hán tử trong phim chưởng Hongkong mình xem lúc trước. “Hảo tửu… hảo tửu a…”, cậu bắt chước thật giống mặc dù thật ra chẳng biết thế nào là rượu ngon.

Cậu không dám uống ngay cái ực như mấy gã Hán tử đó, chỉ ngại ngùng thè lưỡi liếm một chút. Chỉ cảm thấy đầu lưỡi tê tê, Toản nghĩ “Rượu hóa ra thế này à? Vậy thì cũng thường thôi”. Nghĩ đến đây, cậu cầm chén, một hơi uống cạn.

“A… Gì thế này?... Cay quá… Nóng quá…”, – Toản hét toáng lên làm mấy tên tiểu thái giám đứng hầu bên ngoài phòng hốt hoảng chạy vào.

- Bệ hạ… Bệ hạ… Bệ hạ không sao chứ?

- Không sao… không sao… Các ngươi ra ngoài đi.

Mấy tên tiểu thái giám thở phào nhẹ nhõm, “May mà không sao”. Ra khỏi phòng sau rốt, tiểu Thái bỗng tủm tỉm cười.

- Này. Cười cái gì đó, muốn ăn vài hèo không? – Trước giờ Toản rất thích tên tiểu thái giám này nên đôi lúc cũng không phân tôn ti. Cậu chỉ xem y như là một người bạn đồng trang lứa.

- Bệ hạ. Người đó, không biết uống thì uống từng chút một thôi. Nhấp từng hớp nhỏ. Uống cạn một hơi, Bệ hạ không té lăn quay là may rồi đấy. – Tiểu thái cũng nói nửa thật, nửa cợt nhã, đây là đặc quyền của cậu mà Toản đã ban cho.

- Tiểu Thái này. Tại sao cậu không nói trước với ta. À, sau này khi chỉ có hai chúng ta, cậu cứ gọi Trẫm là tiểu Thịnh nhé. Cậu là tiểu Thái, hợp với Trẫm thì ra giang sơn thịnh thái, nghe hay lắm.

- Nô tài không dám – Tiểu Thái cũng giật mình, đây là được yêu quá hóa sợ đây mà.

- Cái gì mà nô tài? Trẫm xem cậu như bạn. Vả lại, ở đây chỉ có chúng ta, có gì mà không dám. Còn nữa, cũng không được xưng là nô tài, Trẫm… à ta cũng ghét lắm. Sống mà hơi tí phải giữ phong độ, lễ nghĩa thì mệt mỏi lắm. Nào, lại đây cùng ăn với ta. Mình ta ăn không hết.

Tiểu Thái biết mình có vùng vằng cũng không thoát. Do dự chốc lát, cậu cũng ngồi xuống.

- Tiểu Thái này. Rượu ngon phải có bạn hiền. Chúng ta thế này có phải là bạn hiền không?

- Đúng là bạn hiền. Ta có nằm mơ cũng không thể nào tin được có ngày được gọi là bạn hiền của tiểu Thịnh. – Tiểu Thái là người mau mắn nên dù còn chút e ngại cũng không đến nỗi xa cách như bình thường nữa.

- À, đúng rồi. Anh ba ta cũng là người hào sảng. Thôi thì phiền cậu qua mời anh ta một chuyến. Chúng ta cùng dùng bữa. Đừng ngại, cậu ngồi chung bàn, không khéo anh ta cũng thấy thích nữa đó chứ.

Tiểu Thái vâng lời, chạy vội sang phủ Quang Bàn. Một lát sau, tiểu Thái quay lại với không phải là một mà là hai người.

- Ha… ha… Ngọn gió nào thổi qua làm chú t.ư nhớ tới anh vậy? Sẵn anh hai mới về, anh kéo qua đây luôn.

- Anh hai? – Toản nói rồi chạy tới ôm chầm lấy Quang Thùy.

Giống như Toản, Quang Thùy không có vóc dáng cao ráo như Quang Bàn. Gương mặt Toản cũng hao hao giống anh. Có lẽ cũng chính vì vậy mà ngay trong sử sách, người ta nói Quang Thùy tuy không được lên ngôi nhưng không hề tị hiềm. Anh vẫn một lòng yêu thương và giúp đỡ cho em mình. Nhưng đừng thấy thế mà xem thường. Anh tuy tầm vóc thấp bé nhưng uy vũ vô cùng, lại thông minh, đĩnh đạc nữa. À, cũng cần phải nói thêm, tính tình của anh rất giống Tam Hoàng thúc Nguyễn Lữ. Anh cũng mê đá gà và thông thạo Hùng kê quyền, đây cũng là môn võ duy nhất anh học; so với anh mình, Toản chỉ có thể ví như là chú gà con với một chú trống choai vậy.

- Anh hai về thì hay quá. Nghe nói anh rất giỏi món Hùng kê quyền. Bữa nào rảnh thì dạy em với nhé.

- Được thôi, – Thùy nói, miễn là chú không la oai oái khi bị ăn đòn. Ha… ha…

- Hai người nói nhiều quá. – Bàn xen vào – Thức ăn nguội lạnh hết rồi. Tiểu Thái, ngươi lấy thêm chén đũa cho anh ta mau.

Có thêm Quang Thùy, tiểu Thái không dám tùy tiện, cậu lấy thêm chén đũa rồi lập tức lui ra.

- Nào… nào… mời hai anh động đũa. Em thì không biết uống, chỉ nhấp sơ sơ thôi. Chủ yếu là “phá mồi”. Ha… ha…

- Này. “Phá mồi” là sao thế? – Bàn hỏi vặn lại – Chú kiếm đâu ra cái thành ngữ lạ thế.

- Đồ ngốc, – Thùy cười vang – “phá mồi” là chỉ ăn, không có uống. Có vậy cũng hỏi.

- Có anh mới là đồ ngốc. Cái đó là em muốn chọc chú t.ư thôi chứ ai mà chả biết. Anh không thấy mặt nó đỏ lên rồi hay sao?

- Cho em xin đi mấy anh. – Toản cũng bất giác thấy mình đỏ mặt thật, cậu lại chống chế – Đâu ra? Do rượu thôi.

Cứ thế, bàn tiệc trở nên rôm rả. Rượu qua mấy tuần, Toản đằng hắng mấy tiếng rồi nói.

- Anh ba. Nghiêm túc tí đi. Anh có nhớ em từng nói là sẽ giao cho anh một việc thú vị không?

- Việc gì thế? Chú đừng làm anh sợ nhé. Bàn nói.

Thùy lúc này cũng nghiêm chỉnh lại, ngồi thẳng người, lắng nghe.

- Em mới tìm thấy một loại chữ viết mới rất dễ học. Em cũng chỉnh lý và cải tiến đôi chút. Nó được gọi là chữ Quốc ngữ do mấy người Tây phương biên soạn. Em muốn sử dụng loại chữ viết này làm ngôn ngữ chính thống của Đại Việt ta. Có như vậy, ta mới dần thoát khỏi lệ thuộc vào người phương Bắc.

- Anh cũng từng nghe cha nói. – Thùy lại xen vào – Cha nói: “Khi nào Đại Việt có chữ viết của riêng mình thì mới là Quốc Gia đúng nghĩa”. Vậy em tính làm sao?

- Em đã giao cho Nguyễn Thiếp biên soạn lại và thuyết phục bá quan cùng bách tính học theo. Em muốn anh ba là người trước nhất học loại chữ viết này. Nó xuất phát từ những ký tự Latin. Chữ của người Anh Cát Lợi cũng xuất phát từ đây. Học được nó, anh sẽ phải học thêm tiếng Anh Cát Lợi nữa. Cũng đơn giản thôi, cái này em biết, em sẽ dạy cho anh. Sau này anh sẽ là người đảm nhiệm bang giao với phương Tây. Khi đó anh có thể thỏa chí dong buồm ngao du tam hồ tứ bể.

- Thế cũng đâu có gì đáng để lên mặt với mấy em như chú mày nói lúc trước.

- Thử nghĩ coi, đứng trước mặt người ta, anh nói mấy câu như “I love you” hay “Je t’aim” xem. Người ta có phải phục anh rồi không?

- “Ai” cái gì đó với “giơ” cái gì đó, nó nghĩa là gì vậy?

- Câu đầu là tiếng Anh Cát Lợi, câu sau là Phú Lang Sa, đều có nghĩa là “Anh yêu em”. Anh tỏ tình mà dùng câu này thì là số một.

- Hờ… hờ… thế à? Thế thì được. Ha… ha…

Quang Thùy cũng lắc đầu với cậu em này. Nói đi cũng phải nói lại. Mấy anh em tuy hay tranh cãi nhau, nhiều lúc đến nảy lửa nhưng trong tâm mình, họ yêu thương nhau hết mực.

- Còn anh, chú tính thế nào đây? Thùy cũng lên tiếng hỏi.

- Em cũng tính cả rồi. Anh nói thử. Nếu song phương binh lực như nhau, thiên thời – địa lợi – nhân hòa như nhau, quyền mưu như nhau. Vậy thì điều gì quyết định thắng lợi? Anh xông pha sa trường đã lâu nên chắc cũng hiểu.

- Binh khí. Chắc chắn là binh khí.

- Anh nói đúng. Em chính muốn anh cùng em nghiên cứu, cải tạo lại vũ khí của chúng ta. Đầu tiên là với súng Điểu thương.

Dừng một lát để anh kịp tiêu hóa những lời mình nói. Toản lại tiếp:

- Theo anh, hiện nay, ta dùng súng Điểu thương thế nào? Một khắc có thể bắn được bao nhiêu viên?

- Súng của ta trước kéo mỏ gà, đổ thuốc vào, bỏ viên đạn vào, bóp cò, mỏ gà có đính đá lửa, đá lửa chạm vào đế sắt tạo ra lửa đốt thuốc, đùng. Như vậy, một khắc có thể bắn tối đa bốn mươi lăm viên.

Thùy vừa nói, vừa đứng lên làm giả động tác. Lúc này anh đã ngà ngà say nên dáng đứng có hơi siêu vẹo.

- Đúng vậy. Nếu như em có cách tốc độ bắn nhanh lên gấp đôi thì sao?

- Cái gì? – Nghe em nói đến có cách làm tăng tốc độ bắn súng, Thùy trở nên tỉnh táo hẳn, cũng không còn vẻ loạng choạng nữa.

- Này nhé. Nếu như ta nén chặt thuốc mồi thành viên, đặt trước nó là một viên đạn rồi bọc chúng trong một ống đồng gọi là vỏ đạn. Vỏ đạn này còn được quệt thêm một lớp lân tinh và lưu hoàng nữa. Đồng thời, cuối nòng súng, ta khoét một lỗ đủ để nhét đạn vào. Khi bắn, ta chỉ cần kéo mỏ gà, nhét đạn, bóp cò. Lúc đó, mỏ gà đục thủng vỏ đạn, viên đá lửa va chạm với vỏ đạn có quệt lân tinh và lưu hoàng sẽ cháy, bắt vào viên thuốc mồi rồi… Đùng. Thế là xong. Anh thấy sao?

Quang Thùy bừng tỉnh. Anh vội sai người lấy giấy bút rồi vẽ lên đó một bức họa. Vẽ xong, anh lại ngắm nghía, tính toán một phen rồi lại nói:

- Còn một vấn đề nữa anh thấy chưa ổn. Thuốc mồi ta hay dùng là thuốc nổ đen. Uy lực không cao. Sau anh bắt được một tài liệu. Trong đó nói rõ, thuốc nổ đen mạnh yếu là do tỷ lệ phối trộn giữa diêm tiêu, than gỗ và lân tinh. Anh cũng đã cho binh lính thử nghiệm và đã tìm ra tỷ lệ tốt nhất, nâng cao uy lực lên ít nhất hai thành. Nếu vậy, kết hợp với cách làm của em, điểu thương của chúng ta không phải đúng là tăng tốc độ bắn lên gấp hai lần, uy lực không phải tăng lên gần gấp rưỡi hay sao?

- Không phải là gấp rưỡi mà ít nhất là hơn năm lần. Vì uy lực của thuốc nổ mạnh hay yếu còn liên quan đến một thứ gọi là “áp suất” nữa. Áp suất càng cao thì uy lực càng mạnh. Ta cho nén viên thuốc lại chính là tăng áp suất cho nó. Còn “áp suất” là gì thì sau này em sẽ nói rõ.

Nói đến đây, cả hai anh em bừng lên nét mặt kinh hỷ. Ngay cả Quang Bàn là người ngoại đạo, từ nãy đến giờ cũng ví như “vịt nghe sấm” cũng ngờ ngợ nghĩ ra là anh em họ đã phát hiện ra một cái gì đó hết sức lớn lao. Nhất định có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sức mạnh quân sự của nhà Tây Sơn.

Mấy anh em lại ôm nhau cười, cùng nâng cốc ngôn hoan. Chính hôm nay, cả ba anh em đã tự phân công cho mình mỗi người một vị trí có ý nghĩa thay đổi thời cuộc đối với nhà Tây Sơn.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 15: Ăn Tết

Chương 15: Ăn Tết

Thời gian thấm thoát thoi đưa, chẳng mấy chốc mà đã cuối năm. Kinh thành Phú Xuân hôm nay như khoác lên mình một tấm áo mới. Mặc dù cái lạnh mùa đông vẫn còn đọng lại trên những nhành cây ngọn cỏ, người ta vẫn cảm thấy một sự ấm áp lạ thường. Có lẽ đã lâu lắm rồi, người Phú Xuân không có một tâm trạng nôn nao đến vậy. Chiến loạn bao năm dù chưa từng chấm dứt, song đâu đó trong những ánh mắt của trẻ thơ, người ta vẫn thấy được niềm vui khôn tả. Năm nay đã khác rồi, Đại Việt đã có một vị vua mới, anh minh và nhân hậu. Quang Toản xuất hiện đã làm trong lòng mỗi người một niềm hy vọng mới về ngày mai tươi sáng hơn.

Phố phường nhộn nhịp với những tao nhân mặc khách. Họ xôn xao kể cho nhau nghe những dự định trong năm mới. Cũng có người tay xách nách mang nào hoa, nào bánh mứt. Đám trẻ con nô đùa, tung tăng khắp phố.

Con đường lớn dẫn đến cung điện hôm nay bỗng trở nên rực rỡ khác thường. Nó đã trở thành một con đường thơm ngát với muôn hoa khoe sắc, nổi bật trong phiên chợ cuối cùng của năm. Đây đó, những ông đồ già bày ra những câu đối liễn. Nhưng lạ lắm, năm nay, vẫn những ông đồ già đó, cũng mực tàu giấy đỏ, mà trên đó không còn là những chữ Hán quen thuộc nữa. Thay vào đó là những hàng chữ Quốc ngữ, chữ của người Việt. Có lẽ vua Quang Trung nói đúng, “Chưa có chữ viết riêng, Đại Việt chưa phải là một Quốc gia thật sự”.

Trên Túy Hương Lâu hôm nay có năm vị khách đặc biệt, nổi bật trong đó là một chàng thanh niên dong dỏng cao, khuôn mặt tuấn tú, tầm mười bảy, mười tám. Trên khuôn mặt đẹp như vẽ ấy, người ta thấp thoáng nhìn thấy có bốn vết ngón tay đỏ chót.

- Người thì đẹp mà dữ dằn gì đâu. – Anh thanh niên càu nhàu, – người ta mới khen một câu, lại nói thêm một câu I love you đã bị ăn tát.

- Đã bảo em là đồ ngốc mà không tin, – một người thanh niên ngồi cùng bàn, trông có vẻ rắn rỏi cười sặc sụa, – không thấy bên cạnh người ta có ai hay sao? Không ăn đòn nhừ tử là may rồi, ở đó mà còn càu nhàu.

Ra đây là mấy anh em nhà vua trong trang phục bá tính thường dân đi chơi chợ Tết. Hôm nay, ngoài Toản và hai người anh còn có cô công chúa Nguyễn Thị Ngọc Bảo bé bỏng, đáng yêu mới lên năm và Hoàng tử bé Nguyễn Quang Đức bụ bẫm dễ thương mới lên ba. Đó là hai đứa con của Bắc cung Hoàng Thái hậu Lê Ngọc Hân.

- Hi… hi… Anh ba là đồ ngốc, là đồ ngốc. – Ngọc Bảo cười rúc rích.

- Đồ ngốc là gì thế? Có ăn được không anh t.ư? – Quang Đức nũng nịu kéo ống tay áo Toản.

- Đồ ngốc là đồ ngốc, không ăn được. Ngốc ạ.

Ngọc Bảo nói ra một tràng “ngốc” rồi lại cười tít mắt.

- Hừ… cũng tại chú em mày mà ta ăn tát. Ai nói câu I love you giúp anh “cua” được gái hả?

- Ai bảo anh nói không đúng chỗ, đúng lúc chứ? Không phải hôm trước Ngọc Sương cũng chao đảo vì câu này của anh à?

- Ây da. Anh cũng đâu ngờ tới chứ. Nói thiệt… anh cũng không dám đụng đến cô nàng đâu. Anh không muốn giống cha nàng.

- Giống chú Tuyết thì tốt chứ sao anh? – Ngọc Bảo lại hỏi.

- Vì… vì… chú ấy… sợ vợ. – Bàn ra vẻ lén lén lút lút nhìn thử xung quanh có ai không rồi thì thầm vào tai em gái.

- Ô… ô… anh dám nói xấu chú Tuyết. Em sẽ mách chú Tuyết cho mà xem. Chú Tuyết thương em nhất.

- Ha… ha… – Quang Thùy lại cười sặc sụa. – Hôm nay thể nào mông của chú ba nhà mình cũng nở hoa…

- Hoa sao mà nở trên mông được? – Quang Đức lại ngây ngô hỏi – Em cũng muốn hoa nở trên mông.

Mấy anh em lại phá lên cười. Cười lớn nhất có lẽ phải nói đến Quang Bàn. Anh là đối tượng bị châm chọc, thế mà vẫn cứ cười như thể chưa từng được cười. Ài…da mặt anh cũng thật dày quá đi.

Ăn uống chán chê, Ngọc Bảo lại nhì nhằng kéo tay Toản, bảo muốn đi ngắm hoa. Hòa vào dòng người tấp nập, Toản bỗng cảm thấy lòng mình ấm áp lạ thường. “Đã mấy tháng rồi, ba mẹ và hai đứa em gái có khỏe không?” Toản chợt nhớ về gia đình của mình ở thành phố Austin. “Ài… quên đi. Có lẽ họ chưa bao giờ hiện hữu. Mình trở về quá khứ đã thay đổi lịch sử, thay đổi quá nhiều. Giờ đây, những người xung quanh mình mới là gia đình thật sự”.

Năm anh em lại tiếp tục vui đùa dạo phố. Thích chí nhất có lẽ là hai đứa em nhỏ. Ở trong cung, suốt ngày phải đối mặt với những người lớn, vẻ mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, cau có, còn có những nụ cười giả tạo của đám thái giám và cung nữ, đây là lần đầu tiên chúng được ra khỏi cung. Ngọc Bảo hết tung tăng chạy đến hàng hoa này lại đến hàng tơ lụa nọ. Quang Đức thì khỏi nói, nó là khách thường xuyên của mấy hàng bánh kẹo và đồ chơi.

Trở về cổng Hoàng cung, ba người anh lớn mồ hôi nhễ nhại với cơ man nào là hoa, là quần áo, là bánh kẹo, đồ chơi. Thật đúng là “làm anh khó lắm, phải đâu chuyện đùa”. Vậy mà, suốt đường đi, cả ba không hé răng mở miệng nói một câu than vãn. Họ hiểu, những phút giây này quý giá biết chừng nào. Vận mệnh giang sơn đang đè nặng lên vai họ. Ở cái tuổi “ăn chưa no, lo chưa tới” này, lẽ ra họ phải có cuộc sống vui thú lắm bên chúng bạn. Nếu không phải là Hoàng tộc, Thùy có lẽ là một anh chàng võ sĩ, lấy thú vui “đả võ đường” làm tiêu khiển; Bàn thì say sư chè chén với lũ bạn đồng trang lứa, chạy theo chọc ghẹo mấy cô bé thướt tha, õng ẹo; còn Toản thì… hơi già trước tuổi tí… vùi đầu vào mấy cái thí nghiệm nghiên cứu khoa học – điều mà cậu thường xuyên làm ở đời sống trước.

……….

Sáng nay là Mồng một Tết.

Sau khi nghe những bài diễn văn dài lê thê cùng mấy lời chúc tụng lên đến tận mây xanh, Toản ngáp dài ngao ngán, rảo bước trên đường đi đến Đông cung – nơi mẹ cậu, Bùi Thái hậu đang cư ngụ. Ở đâu cũng vậy, thời nào cũng vậy, phận sự của những người con trong ngày đầu năm là đi thăm cha mẹ, ông bà.

Bước vào hành cung, Toản ngạc nhiên khi thấy Bắc cung Hoàng Thái hậu cũng ở đó. Đối lập với mẹ cậu – Thái hậu Bùi Thị Nhạn – với phong thái “cân quắc nữ anh hào”, Lê Ngọc Hân nổi bật với vẻ kiêu sa, đài các. Cả hai người phụ nữ hôm nay trông đẹp lộng lẫy với áo dài thướt tha và khăn đống trên đầu.

À, nói lại một chút. Cách đây không lâu, Toản đã cho định Quốc phục. Trong những dịp quan trọng hay lễ nghi, phụ nữ phải mặc áo dài nam bộ vào mùa xuân và mùa hè, áo tứ thân dành cho mùa thu và mùa đông; đàn ông thì… áo dài là muôn thuở. Còn trong sinh hoạt hàng ngày, áo bà ba là lựa chọn số một. Toản đắn đo dữ lắm, lại có một hồi tranh cãi kịch liệt nổ ra giữa buổi thượng triều hôm đó. Có ý kiến nói áo dài nam bộ thì đẹp, áo bà ba thì gọn ghẽ, thuận tiện thật, nhưng trông chúng… hở hang quá. Nghìn năm qua, dân tộc Việt đã thấm nhuần t.ư tưởng Khổng Mạnh. Với họ, người phụ nữ chỉ đẹp khi e ấp trong những bộ trang phục “kín cổng cao tường”. Trong khi đó, hai loại trang phục mới lại mỏng manh quá, lại nửa kín, nữa hở, trông “khó coi” vô cùng. Trong nhóm ủng hộ, có lẽ cảm thấy thích thú nhất vẫn là giới nữ, đặc biệt là Ngũ Phụng Thư. Dù sao họ cũng được gọi là phái đẹp mà. Kết thúc cuộc tranh cãi là một quyết định: Nữ giới phải mặc thêm một tầng áo lụa mỏng bên trong.

- Ơ… Dì cũng ở đây à? – Toản hỏi Lê Ngọc Hân – Con tính sẽ qua thăm dì sau khi vấn an mẹ.

- À… Có gì đâu. Chẳng qua hai đứa bé cứ nằng nặc đòi qua đây. Chúng nói, “qua đây thể nào cũng gặp Bệ hạ cùng tiểu Thái”.

- Mẹ cũng thấy bất ngờ khi dì con tới. – Bùi Thái hậu lên tiếng – Lẽ ra mẹ mới phải là người đi vấn an Bắc cung trước. Thế mà, con xem, vừa bước ra thì đã thấy hai đứa nhỏ này.

- Mình là chị em. Cần gì phải phân trước sau. Em thấy đó, mấy anh em chúng nó – Ý bà chỉ ba anh em lớn nhà Tây Sơn – cũng quấn quít nhau, lại bày ra mấy cái trò quái quỷ. Chị em mình là người lớn, lẽ nào lại không được như đám trẻ sao? Lại nữa, em còn là một đấng anh thư, em không chê mấy cái lễ nghi này thật phức tạp sao?

Quả thật, Lê Thái hậu là một người phụ nữ rất tiến bộ và hiểu chuyện. Sinh ra trong Hoàng tộc họ Lê, bà được thừa hưởng một nền giáo dục khắt khe đôi lúc thái quá. Giờ đây, trong thời đại mới, nhất là với những sự cải tổ theo hướng tự do, thoải mái hơn, bà là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất. Đặc biệt, bà đã đóng góp một công sức rất lớn vào một quyết sách cực kỳ quan trọng của Toản: phổ biến chữ Quốc ngữ.

Chuyện là thế này. Còn nhớ lúc Nguyễn Thiếp vâng mệnh nhận nhiệm vụ thuyết phục bá quan, ông có xin Toản ban một đạo Thánh chỉ. Đang lúc Toản còn băn khoăn không biết phải viết chiếu thư với nội dung thế nào thì được Lê Thái hậu cho mời. Toản rất thích người phụ nữ đẹp người đẹp nết này nên thuận miệng nói ra nỗi khổ của mình.

- Có gì mà khó? – Bà nói – Con sợ Thánh chỉ mình viết ra không có sức thuyết phục thì nhờ Tiên đế.

- Ý dì là cha con? Nhưng cha mất đã lâu rồi. Sao mà nhờ cha được? Không lẽ nói với bá quan là đêm qua cha về báo mộng à?

- Ta không có ý này. Điều ta nói là một bức di thư.

- Ý dì là… – Toản lờ mờ hiểu ra – giả truyền Thánh chỉ à? Không được đâu.

- Có gì mà không được? Chữ viết của cha con, ta còn lạ gì, lại còn thành thạo nữa là khác. Hơn nữa, ta nhớ đúng là trước đây Ngài có nói với ta về nỗi ưu t.ư này.

Dừng một lúc, bà lại nói:

- Bức di thư, dì sẽ giúp con. Nếu có người phát hiện, bất quá thì ta nhận. Con là Hoàng đế, lẽ nào không giúp ta “chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ như không có” hay sao?

- Vậy thì nhọc lòng dì rồi. Dì dạy sao, con nghe vậy.

Sáng hôm sau, trong lúc thượng triều, Toản lấy ra một cuộn giấy. Cậu bảo là trong một lúc nhớ thương chồng, Lê Thái hậu tìm thấy cuộn giấy này trong đống di vật vua Quang Trung để lại.


Phú Xuân, ngày 20 tháng 6,

Gửi Ngọc Hân, vợ ta.

… đoạn này, Ngọc Hân viết về tình cảm, luyến ái giữa hai người, Toản không cho đọc…

Trong những ngày tiến đánh Gia Định, ta đã gặp một người tên là Bá Đa Lộc. Ông ta là một giáo sĩ người Phú Lang Sa. Ông ta nói trong đời mình, ông ta chỉ thờ phụng một người duy nhất tên là Jesus, ta cũng không biết đó là ai. Điều này là không thể chấp nhận được, ta không thích. Tuy vậy, có một điều ở ông ta làm ta không thể không phục. Ông ta nói rất sành tiếng ta. Ông ta cùng những người trong hội của mình lưu truyền một thứ chữ viết gọi là Quốc ngữ. Đây là một loại chữ viết rất dễ học và dễ dùng. Nó rất khác chữ Hán. Nghe đâu là do một người tên là Đắc Lộ soạn ra.

Ta nhận thấy nước Nam từ nghìn năm trước đã bị người phương Bắc áp chế. Ngay cả chữ viết cũng phải dùng của họ. Ta trăn trở nhiều đêm cuối cùng quyết định giao cho Thiếp nghiên cứu đặng sau này truyền bá trong dân. Ta muốn biến nó thành chữ viết của dân tộc ta, xứng danh chữ Quốc ngữ. Nước ta chỉ trở thành một Quốc gia thực sự khi có một loại chữ viết cho riêng mình.

… đoạn này còn viết thêm…

Để truyền bá loại chữ này, cách tốt nhất là để những người làm ra nó dạy cho dân ta. Bởi vậy nên cần phải bãi bỏ lệnh cấm đạo của họ. Phải cho họ một ít quyền lợi nho nhỏ thì họ sẽ hết lòng làm cho ta. Đây là đạo dùng người. Cái chính là phải đưa họ vào khuôn phép, phải làm cho dân ta không được quên gốc gác của mình. Còn lại, ai muốn tin thì cứ tin, ai muốn theo thì cứ theo.



Đến lúc này, La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp bước ra khỏi hàng, xác nhận lại việc này, đồng thời nói ra những sự hiểu biết của mình. Ông còn minh chứng sự thuận tiện bằng cách viết ra một dòng chữ Hán và một dòng chữ Quốc ngữ có nội dung như nhau cùng cách đọc sơ bộ. Bá quan cứ thế mà tấm tắt khen hay. Việc truyền bá chữ Quốc ngữ từ đó cũng dễ dàng hơn nhiều.

Quay về hiện tại. Toản sau mấy câu chúc Tết mẹ và dì lại bị hai đứa em nhỏ kéo đi chơi chỗ khác. Mồng Một Tết cứ vậy mà trôi qua trong niềm vui và ấm áp.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 16: Mã Kim Đa

Chương 16: Mã Kim Đa

Chẳng mấy chốc mà nay đã là tháng năm. Với những cải cách của mình, Toản đã vực dậy tinh thần làm việc không biết mệt mỏi của bá quan văn võ. Hiệu quả làm việc của Bộ Chính trị đến nay cũng cho thấy sự ưu việt của mình. Đến nỗi, thời gian này Toản gần như chẳng cần làm gì cả. Cậu vùi đầu vào những nghiên cứu của mình.

Có câu “Phi thương bất phú”, là người đã từng sống ở thời đại thương nghiệp phát triển mạnh mẽ, hơn ai hết, Toản hiểu rất rõ giá trị của câu thành ngữ này. Trừ cảng Thị Nại dùng cho quân sự, dọc theo suốt chiều dài bờ biển, cậu cho khôi phục lại hoạt động của các thương cảng. Nổi tiếng nhất có lẽ là Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An và Nước Mặn.

Thương nhân phương Tây từ đây cũng thường xuyên ghé lại. Đặc biệt hơn, với sự cho phép của Toản, công ty Đông Ấn Anh và Đông Ấn Hà Lan được phép hoạt động trở lại sau hàng mấy mươi năm trời đóng cửa. Các “khu phố Tây” cứ như vậy tùy thời mà mở ra.

Đại đa số sản vật mà các thương nhân này mua vào là hàng thủ công mỹ nghệ như vải vóc, gốm sứ, đồ gỗ. Có cung ắt sẽ có cầu, người xưa dạy đố sai. Các làng nghề thủ công vì thế cũng hoạt động vô cùng sôi nổi. Cả Đại Việt nổi lên như một đại công trường.

Bên cạnh đó, chính sách khuyến nông sau hơn nửa năm nay đã mang lại nhiều hiệu quả. Người nông dân đã biết trồng trọt xen canh. Đặc biệt hơn, với sự xuất hiện của người phương Tây, người dân đã bắt đầu trồng trọt hai loài cây chiến lược: cây bông và cà phê.

……………

Ngày hôm nay, kinh thành Phú Xuân đón một đoàn khách lạ. Họ đến từ một chiếc chiến thuyền lớn có tên gọi “Người khai sáng”. Đây là một đại thuyền với một trăm lẻ sáu khẩu đại pháo đặt trên boong. Dẫn đầu là một người đàn ông Anh Cát Lợi cao lớn tên Mã Kim Đa.

- Hoàng thượng có chỉ truyền sứ bộ Anh Cát Lợi tấn kiến.

Bước vào chính điện, Mã Kim Đa trong bộ lễ phục Anh Cát Lợi màu đỏ cùng dáng người cao lớn trở nên cùng nổi bật. Đối diện Toản cùng bá quan, với một thái độ khinh khỉnh sau khi thấy quốc vương chỉ là một đứa bé mười ba tuổi, ông ta cúi chào bằng một câu tiếng Trung Quốc:

- Thần, Mã Kim Đa thay mặt Sứ bộ Anh Cát Lợi xin triều kiến Bệ hạ.

- You are General Mark Downing, aren’t you?

Toản đáp lời với một câu nói tiếng Anh rất chuẩn. Cậu hiểu rõ cần phải làm điều này nếu như muốn lấy được kính trọng của ông ta. Tất nhiên, không cần phải nói điều này làm ông ta kinh ngạc biết chừng nào. Thậm chí, trong triều, trừ ra Nguyễn Thiếp cùng Phan Huy Ích, không ai dám tin được Toản có thể nói chuyện với một người Anh Cát Lợi bằng chính thứ tiếng của họ. “Càng bất ngờ hơn là y biết ta là một Tướng quân”, Mã Kim Đa thầm nghĩ.

Tại sao Toản lại biết rành rẽ về người này? Cậu lại nói đúng tên gốc bằng tiếng Anh Cát Lợi chứ không phải là tên phiên âm như bá quan trên điện. Thật cũng không có gì khó hiểu nếu như biết Toản là người đến từ thế kỷ hai mươi mốt. Trong một dịp tình cờ, Toản đã đọc được một t.ư liệu nói có một đoàn sứ bộ nước Anh đã từng ghé thăm Đại Việt vào giữa năm 1793. Khi đó, vua Đại Việt là Cảnh Thịnh đã ban cho sứ bộ hai tờ Quốc thư hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Hoàng Gia Anh, và người dẫn đoàn là Trung tướng – Đô đốc Hải quân Hoàng gia Mark Downing.

Đó cũng là một trong những lý do Toản gấp rút cho mở cửa lại các thương cảng dọc từ bắc chí nam. Cậu hiểu đây chính là cơ hội để chính thức đặt quan hệ với Anh Cát Lợi. Có được mối bang giao này, cậu có thể gây chia rẽ giữa Ánh và người Pháp. Hơn nữa, cái mà cậu nhắm đến còn là vì chiến thuyền của Anh cùng với thủy ngân, một chất không thể thiếu để chế tạo hạt nổ trong súng quân dụng. Cậu lại nói tiếp bằng tiếng Anh:

- Đừng ngạc nhiên. Trẫm còn biết rõ khanh là một vị tướng quân, đồng thời là đô đốc của hải đội số mười bảy Hải quân Hoàng Gia Anh. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi khanh thấy sự xuất hiện của công ty Đông Ấn tại đây. Chính họ trong một dịp vô tình đã để lộ ra sẽ có một vị tướng quân xuất hiện tại đây. – Toản đã tự nghĩ ra một lý do có thể chấp nhận được. – Khanh không còn ngạc nhiên nữa chứ?

- Thần đã hiểu. Trước khi đến đây, Thần đã nghe danh Bệ hạ đã lâu.

- Vậy, khanh thử nói xem, Trẫm có thể giúp các khanh được gì?

- Thần không dám. Được sự ủy thác của Hoàng gia, chúng thần đến đây xin thiết lập bang giao giữa hai nước. Đây là quốc thư, kính mong Bệ hạ xem qua.

Xem qua quốc thư, Toản khẽ nhăn mũi, nghĩ thầm: “Hừ! Có quỷ mới tin các người lặn lội đến đây để thiết lập bang giao”.

- Được rồi. Việc bang giao, Trẫm tán thành. Tuy nhiên, các điều khỏa trong đó phải được bàn bạc kỹ càng. Chúng ta sẽ nói chuyện đó vào ngày mai. Còn bây giờ, ta đã sai người chuẩn bị sẵn một buổi tiệc tẩy trần ở hậu hoa viên. Người của Trẫm sẽ dẫn đường. Các khanh hãy đến trước, Trẫm còn có đôi lời với bá quan, sẽ đến sau.

- Vậy thì chúng thần xin cáo lui.

Đợi đoàn sứ bộ đi khỏi, Toản quay sang hỏi Phan Huy Ích:

- Khanh hiểu bọn họ nói gì không? Khanh nghĩ sao?

- Khải bẩm. Theo ý thần, mục đích của họ chưa hẳn là để thiết lập bang giao với chúng ta.

- Sao khanh lại nghĩ như vậy?

- Bệ hạ. Thần có sai thám tử theo dõi công ty Đông Ấn Anh và Đông Ấn Hà Lan. Theo ý nghĩ của thần, Anh Cát Lợi và Hà Lan là những nước lớn ở phương Tây. Cứ nhìn những chiếc thuyền buôn của họ cũng hiểu. Ở nước ta, chỉ có những chiến thuyền cấp Định Quốc mới có thể đi lại trên Đại dương mênh mông. Thế mà, dù chỉ là những chiếc thuyền buôn bình thường, họ đã có thể vượt một đoạn đường xa đến như vậy để tới đây. Điều đó cho thấy, về tiềm lực kinh tế và quân sự, có khả năng họ còn vượt xa chúng ta.

Dừng lại một lát và quan sát. Ích thấy một số quan viên cũng gật gù đồng ý. Đoạn, ông tiếp:

- Theo thiển ý của thần. Họ đến đây là để quan sát. Nếu như Đại Việt chúng ta không giàu mạnh, họ sẽ phái quân viễn trình đến đây để xâm chiếm. Bằng ngược lại, họ sẽ có ý kết giao với chúng ta. Dù thế nào, một minh hữu mạnh mẽ ở phương Đông vẫn có lợi hơn là một kẻ thù. Hơn nữa, theo thần quan sát, các công ty Đông Ấn có vẻ bất mãn với Đại Thanh. Sớm muộn họ cũng tính tới thôn tính Đại Thanh. Như vậy, họ càng cần một đồng minh như chúng ta để làm bàn đạp.

- Vậy ý chúng khanh thế nào? Bang giao hay là không?

- Theo thần thấy, – tiến lên là Ngô Thời Nhiệm – chúng ta cần kết minh với họ. Nói đúng hơn, chúng ta cần những chiến thuyền của họ.

- Thần cũng đồng ý, – đến lượt Ngô Văn Sở góp lời. Theo thần được biết, giặc Ánh ở phương nam đang hợp tác với Phú Lang Sa. Chúng ta có thể thông qua Anh Cát Lợi mà lập kế ly gián. Ánh bị cô lập sẽ dễ dàng cho chúng ta hơn.

- Thần cũng đồng ý, – Bùi Thị Xuân nói tiếp. – Theo thần biết, chiến thuyền của Ánh cũng không phải thông qua con đường trực tiếp mà có được. Rõ ràng là thông qua một mối trung gian khác. Nếu bang giao với Anh Cát Lợi, chúng ta có thể trực tiếp có được chiến thuyền của họ. Vậy thì thống nhất giang sơn có gì mà khó.

Đến đây, bá quan cũng bắt đầu nghị luận, song không còn ai lên tiếng nữa. Họ hiểu những gì cần nói, người khác đã nói trước hết rồi. Lúc này, Toản mới lên tiếng.

- Các khanh phân tích rất hợp ý Trẫm. Tuy nhiên, bang giao với họ, Trẫm còn cần một thứ khác nữa. Đó là một loại chất lỏng có tên gọi thủy ngân. Có thủy ngân, Trẫm khẳng định chúng ta sẽ có được những thứ vũ khí tốt nhất. Còn làm như thế nào để được như vậy, Trẫm sẽ cho các khanh biết sau.

Đoạn cậu quay sang Nhiệm:

- Đại học sĩ, khanh là người có nhiều kinh nghiệm về bang giao với nước ngoài. Trẫm giao cho khanh biên soạn những điều khoản cần thiết cũng như bàn bạc trực tiếp với sứ bộ của họ.

- Thần, tuân chỉ.

- Thôi, cũng không nên để những vị khách của chúng ta đợi lâu. Chư vị khanh gia, cùng đi với Trẫm nào.

……………

Một lát sau, triều thần đã đến Ngự hoa viên. Ở đó, sứ bộ đã có mặt, bên cạnh họ là Quang Bàn.

- Ồ… thế là các khanh đã quen biết với nhau rồi sao? – Toản hỏi khi nhìn thấy Bàn nói chuyện rất say sưa cùng Mã Kim Đa.

- Bệ hạ. – Mã Kim Đa nói – Phải công nhận một điều. Hoàng gia nhà Đại Việt có không ít nhân tài. Chúng thần cùng Vương gia nói chuyện rất tâm đắc. Ngài cũng tỏ ra mình có một trí tuệ hơn người.

- Ồ… thế thì các khanh hãy nói chuyện với nhau nhiều hơn. Chuyến công du sang Quý quốc sắp tới, Trẫm dự tính chỉ định Quang Bàn làm trưởng đoàn đấy. Nào… nào… các khanh tới cũng đã lâu. Chúng ta cùng ngồi vào bàn nào.

Sau, Toản gọi người dâng thức ăn lên. Theo những gì Mã Kim Đa cho biết, họ rất thích những món đồ thủ công cùng trái cây và vải vóc của Đại Việt. Toản cũng tỏ ra hào phóng khi hứa sẽ tặng cho họ một ít để làm quà khi sứ bộ về nước. Trước khi tan tiệc, Mã Kim Đa có ý mời Toản cùng triều thần đến tham quan chiến thuyền “Người khai sáng”.

Sáng hôm sau, Toản cùng Quang Bàn, Phan Huy Ích và Ngô Thời Nhiệm có mặt trên “Người khai sáng”. Rõ ràng, nếu quan sát ở gần, người ta có thể thấy đây là một chiến thuyền ba cột buồm khổng lồ với chiều dài hơn gấp rưỡi chiếc Định Quốc. Thuyền có ba tầng đại bác ở mỗi mạn cùng sáu khẩu ở đuôi và hai khẩu ở mũi. Nếu đếm kỹ thì rõ ràng có cả thảy một trăm lẻ sáu khẩu đại bác tất cả. Quan sát nét mặt của Mã Kim Đa, quân thần Tây Sơn thấy rõ vẻ tự hào của ông ta.

- Bệ hạ. Đây chỉ là chiến thuyền được xếp hạng hai thôi. Chiến thuyền số một của Hoàng gia chúng thần có đến một trăm năm mươi hai khẩu đại bác.

Nghe nói vậy, Toản chợt nhớ ra, chiến thuyền lớp Frigate này của Anh có một trăm lẻ sáu khẩu đại bác thật, nó chỉ kém hơn một ít so với chiếc Heavy Frigate với một trăm hai mươi hai khẩu mà thôi.

- Trẫm quả thật thích chiếc chiến thuyền này. À, nhân đây, Trẫm cũng có một món quà tặng riêng cho khanh.

Nói rồi, Toản ngoắc tay tiểu Thái nãy giờ đứng hầu sau lưng tiến lên, ôm một hộp gỗ dài, mở ra và đưa cho Mã Kim Đa. Đây là một cặp súng Điểu thương mới với năm mươi viên đạn. Thoáng nhìn, chúng có vẻ rất tầm thường. Tuy nhiên, với nhãn quan của một người trong nghề như Mã Kim Đa, ông ta nhận thấy có sự khác biệt rất lớn so với các loại súng khác. Ông thầm nghĩ: “Quả thật, kỹ thuật chế tạo vũ khí ở nước này rõ ràng chẳng hề thua kém ta. Chỉ cần nhìn sơ cũng hiểu cặp súng này khi bắn sẽ có uy lực lớn hơn nhiều”.

- Sao khanh không thử một chút?

- Vậy thần mạn phép.

Cầm súng lên, ông ta cảm thấy rất vừa tay. Nhìn sang viên đạn bên cạnh, một lần nữa Mã Kim Đa lại ngạc nhiên: “Sao viên đạn lại không có hình cầu mà có vẻ dài như vậy nhỉ? Mà bỏ đạn vào đâu? Thuốc mồi để ở đâu?”

Nhìn thấy sự lóng ngóng của Mã Kim Đa, Quang Bàn mỉm cười, tiến lên hướng dẫn ông ta những thao tác cơ bản. Theo lời gợi ý của Bàn, Mã Kim Đa chọn một tảng đá khá xa, ước chừng tầm một trăm mét.

Đoành… Viên đạn bay đi với quỹ đạo rất chính xác, để lại trên tảng đá một vết lõm khá sâu. Đây là điều mà với các loại súng mình biết, ông nhận thấy là không thể làm được.

Kết thúc chuyến viếng thăm, Mã Kim Đa mời Toản cùng quan viên tùy tùng ở lại dùng bữa trên thuyền.

Hai hôm sau, bản thỏa thuận điều kiện bang giao cũng đã được hoàn thành với sự hài lòng của cả hai bên. Quan trọng nhất, Anh Cát Lợi đồng ý bán cho nhà Tây Sơn hai mươi chiến thuyền cùng loại với “Người khai sáng” cùng một lượng lớn thủy ngân; ngược lại, nước Anh Cát Lợi nhận về mười nghìn cây súng Điểu thương thế hệ mới cùng với mười nghìn chiếc mỏ gà dự phòng. Thời gian bàn giao là một năm sau. Cũng phải nói thêm, đây mới chỉ là lần mua bán đầu tiên của cả hai bên.

Trước khi lên đường về nước, Mã Kim Đa ngỏ ý tặng lại cho Toản chiếc “Người khai sáng”. Sau một hồi từ chối, Toản cuối cùng cũng nhận lấy với lý do đoàn sứ bộ vẫn còn một chiếc chiến thuyền tương tự đang neo đậu ngoài khơi và cũng thể hiện thành ý của Anh Cát Lợi khi tiến hành bang giao.

Mã Kim Đa cuối cùng cũng lên đường về nước năm ngày sau đó. Ông ta thầm nghĩ: “Rốt cục nước Anh cũng có được một minh hữu đáng tin cậy ở vùng Đông Á này. Đồng thời, với số lượng súng Đại Việt bán cho mỗi lần một nhiều hơn và đương nhiên chất lượng cũng tốt hơn, Anh quốc sẽ là bá chủ của Châu Âu”.
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu

Chương 17: Gia Long

Chương 17: Gia Long

Lại nói về Nguyễn Ánh.

Thất bại nặng nề sau trận chiến đầm Thị Nại đã tước đi một phần ba sức mạnh quân sự. Giờ đây Ánh quả là đã bị thương thật sự. Ấy thế mà đừng vội xem thường. Còn nhớ ngày nào, dù không binh không tốt, Ánh vẫn có thể đứng dậy, xây dựng lại cho mình một vương triều hùng mạnh, mưu đồ thống nhất giang sơn. Với một con người tài cao chí lớn, lại từng bao năm nếm mật nằm gai thì những vết thương này có đáng là gì.

Trong cuộc chiến long hổ tranh hùng giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn, Ánh đã bao lần bị dè bĩu, chê bai với câu thành ngữ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ấy thế mà đừng vội đánh giá ông là hạng người tiểu nhân, bán nước. Ngược lại, ông là một người có lòng yêu dân như con, còn được lòng bá quan văn võ.

Xứ nam bộ, người dân chân chất, hiền hòa. Họ không cần quá giàu có, cũng không có nhiều lý tưởng quá cao xa. Với họ, chỉ cần an cư lạc nghiệp, đời sống yên bình là đủ. Mỉa mai thay, chính những người đi trước, ông cha ông lại không nhìn thấy điều đó. Trong cái thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, ai có nắm đấm lớn hơn, người đó sẽ thắng. Bởi vậy, bao đời chúa Nguyễn chỉ biết tập trung cho quân đội, chạy đua vũ trang với chúa Trịnh ở phía bắc. Đời sống người dân cơ cực biết chừng nào. Nạn đói diễn ra thường xuyên, bá tính phải tha hương cầu thực.

Chỉ có một người đánh giá được đúng tiềm lực của cái xứ này – Nguyễn Ánh. Từ ngày trở về nước mấy năm trước, Ánh đã làm nên điều thần kỳ mà cha ông ông chưa từng nghĩ đến và làm được.

Năm năm trước, Nguyễn Ánh cho lập kho Bốn Trấn làm kho chung cho các trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, và Định Tường để thu thuế và làm ngân quỹ cấp lương bổng cho quan. Đến năm sau, ông đưa ra chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cộng đồng di dân chưa định hình và chiến tranh liên miên ở vùng Gia Định. Nguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gốm mười hai người, nổi bật là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh Khánh, để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quân.

Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng đất tốt thu trên một trăm thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên bảy mươi thùng lúa thì sẽ được thưởng thêm. Những người dân lậu cũng có thể làm ruộng dưới sự quản lý của quan điền toán và được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho vay trả sau.

Đến tháng mười năm tiếp theo, binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp khi phép Ngụ binh ư nông được thi hành. Binh lính được khuyến khích cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranh. Nhóm Trung Quân và các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho công. Các quan địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế. Số lúa gạo thu được từ các đồn điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ.

Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng một năm hai kỳ thu là thuế thị túc và thuế thị nạp.

Đến trước đây hai năm, Nguyễn Ánh cũng bắt đầu cho đưa các nhóm thợ thủ công ông đưa từ miền Trung Đại Việt vào. Ông cho quy hoạch lại nghề thủ công ở vùng Gia Định: ông cho quy hoạch ra sáu mươi bốn ty thủ công gồm đủ các loại ngành nghề được phân bố khắp các dinh. Khu vực Sài Gòn có sở Nhà Đồ gồm hai mươi hai ty, trong đó có các ty thợ mộc, thợ sơn, thợ cưa. Bên cạnh đó còn có các đội chuyên trách phục vụ cho các ty và tổ chức gọi là "nậu" gồm dân thợ cùng nghề ở các vùng dân cư hẻo lánh, chưa nên thôn xóm.

Việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm soát chặt chẽ, nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu huỳnh, sắt,gang, chì đen để có thêm nguồn tài chính và binh khí.

Từ trước khi Nguyễn Phúc Cảnh về, Nguyễn Ánh đã đưa ra chính sách mời gọi thuyền nhà Thanh vào buôn bán. Ngoài ra, Ánh còn thường xuyên cho thuộc cấp đi qua các khu vực do thực dân phương Tây kiểm soát gần Đại Việt để mua binh khí, trong đó quân Nguyễn thường xuyên lui tới nhất là các khu vực lãnh thổ phía Tây như Batavia, Malacca, Transquebar.

Để kiểm soát Gia Định, người Khmer vốn là dân bản địa, Ánh phải cho hai tướng người Khmer của mình về coi các vùng có số dân Khmer đông để thiết lập các khu vực tự trị, đề ra các chính sách và luật lệ hạn chế xung khắc với người Việt, việc tương tự cũng diễn ra ở khu vực Hà Tiên.

Đối với cộng đồng người Hoa, ông đưa ra chính sách đối xử với họ cũng giống như người Việt: cũng phải nộp thuế, đi lính; và lập chức Tổng phủ người Hoa cai quản hai vùng phức tạp Ba Thắc và Trà Vinh. Bên cạnh đó, ông cũng cho kiểm tra dân số để tiện việc bắt lính và thu thuế, đưa ra các chính sách chống trộm cướp và gìn giữ an ninh; các hình thức tệ nạn như phù thủy, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm. Đồng thời ông cũng đưa ra chính sách hạn chế nấu rượu để tiết kiệm gạo và cho thuộc quan tổ chức các hoạt động mua vui cho dân chúng.

Kể ra, quả thật, so với Ánh tình hình của Toản ở phía Bắc bình yên hơn nhiều. Thế mà ông vẫn lèo lái được con thuyền vương triều của mình vượt qua bao khó khăn. Nói như vậy, trong mắt của những người chân chất xứ nam này, Ánh đúng là một vị minh quân.

Lại quay về tình hình hiện tại, vết thương chiến bại đã dần khép lại. Trong nửa năm này, Ánh không vội chiêu mộ thêm binh sĩ. Ổn định lại dân tâm là điều tiên quyết.

Chính điện thành Phụng, nội thành Gia Định.

“Hoàng thượng lâm triều, các quan mau vào tấn kiến”.

Ngồi trên bệ rồng, Ánh nhìn xuống chúng thần. Hôm nay, ông mới nhận được một tin hết sức quan trọng.

“Các quan có việc thượng tấu”, tiếng truyền chỉ của tên Thái giám truyền chỉ lại vang lên.

- Thần, Trịnh Hoài Đức có việc cần tấu.

- Chuẩn tấu.

- Khải bẩm. Hôm qua, Võ Tánh tướng quân có tin khẩn cấp báo về. Theo thám tử báo cáo, cách nay bảy ngày, giặc Ngụy tiếp đón một đoàn sứ bộ Anh Cát Lợi. Hai bên đã ký hiệp nghị bang giao sơ bộ.

- Trẫm cũng nghe nói về việc này. Ý các khanh thấy sao?

- Thần thấy, – Lê Văn Duyệt nói. – Nếu như để Ngụy tiếp tục phát triển như vậy, e là bất lợi cho chúng ta.

- Theo thần thì chưa chắc, – Lê Quang Định lên tiếng. – Bang giao với phương Tây, tính về thời gian, Ngụy so với ta còn kém nhiều lắm. Người phương Tây lòng lang dạ sói, chắc gì giặc Ngụy đạt được lợi ích.

- Cũng có thể là Anh Cát Lợi đang muốn lợi dụng giặc Ngụy để dễ bề đánh chiếm nhà Thanh. – Người lên tiến là tham tri Bộ binh Hồ Văn Đính.

- Theo thần lại thấy, – Trịnh Hoài Đức sau một lúc yên lặng lại nói. – Mục đích của Anh Cát Lợi không đơn giản là như vậy. Có lẽ họ có hai con đường để đi.

- Khanh nói xem.

- Theo thần, họ đến là để do thám tiềm lực của Ngụy. Thứ nhất, nếu Ngụy yếu, Anh Cát Lợi sẽ xâm chiếm miền Bắc, sau đó sẽ tìm cách nuốt chửng chúng ta. Lúc đó, Đại Việt mới thực sự là bàn đạp tốt để đánh Thanh. Thứ hai, nếu Ngụy mạnh, Anh Cát Lợi sẽ có một đồng minh. Lúc đó, họ sẽ giúp Ngụy đánh ta, sau lại giúp Anh Cát Lợi chiếm Thanh. Cả hai đường đều có lợi cho họ.

Những gì Trịnh Hoài Đức phân tích giống như Toản và cả Ánh nhận định. Quả thật ông không hổ danh là nhân tài đất Việt. Cả hai con đường mà Anh Cát Lợi lựa chọn đều gây bất lợi cho nhà Nguyễn. Phải làm sao đây?

- Phụ hoàng, nhi thần có ý kiến. – Hoàng tử Cảnh nói.

- Con cứ nói.

- Theo nhi thần được biết, chính nước Anh Cát Lợi và Phú Lang Sa từ đầu đã có dã tâm với Đại Việt ta. Chúng đã phân định hai miền từ trước. Theo đó, Phú Lang Sa sẽ giúp ta, Anh Cát Lợi sẽ ủng hộ Ngụy. Tiếng là giúp nhưng thực tế là chúng sẽ nuốt gọn ta. Sau khi đạt được mục đích, Đại Việt chính là chiến trường của cuộc thư hùng giữa hai cường quốc mạnh nhất thế giới này.

- Rồi sao nữa?

- Bởi vậy, con thấy, đây không phải là cuộc nội chiến của Đại Việt. Mà là cuộc chiến bốn bên. Hay nói theo tổng thể, đây là cuộc chiến chống ngoại xâm. Theo thiển ý của nhi thần. Không có minh hữu mãi mãi và cũng không có kẻ thù nào là mãi mãi. Việc trước tiên là bản thân triều ta phải mạnh mẽ. Ngụy có lớn mạnh cũng không phải là xấu.

- Vì sao?

- Khi ta mạnh, Ngụy mạnh, hai con sói kia sẽ không dám gây hấn với Đại Việt. Ngược lại, chúng sẽ chọn chiến trường khác. Lúc đó mới chính là lúc phân cao thấp với Ngụy. Ấy chính là kế sách trước đuổi ngoại xâm, sau bình nội loạn.

- Khởi bẩm, – Đức tiếp lời. – Thần cũng có cùng suy nghĩ với Hoàng tử. Song, chúng ta cũng không thể để Ngụy cứ thế mà lớn lên được. Theo kế sách Hoàng tử đưa ra, giữa ta và Ngụy, ai là rồng, ai là hổ còn chưa biết được. Để bảo đảm cho thắng lợi, chúng ta phải có kế sách kiềm hãm Ngụy.

- Vậy việc này hãy để lại cho thần, – Lê Văn Duyệt chen vào. – Trước ta tạm thời phân định biên giới với Ngụy, Diên Khánh và vùng phụ cận ta nắm giữ, từ Phú Yên trở ra thì giao cho Ngụy. Thời gian này, thần cùng chúng tướng thỉnh thoảng lại đem quân tiến đánh Phú Yên và Quy Nhơn, không thể để chúng bình yên mà trưởng thành được. – Lê Văn Duyệt vốn là một tướng cầm quân nên lời lẽ có phần hiếu chiến cũng là điều dễ hiểu.

- Thần còn thấy, – Lê Quang Định ứng lời. – Việc Anh Cát Lợi chọn con đường giao bang với Ngụy cho thấy một điều. Đó là Ngụy lúc này không thể đụng đến, chúng cũng có những cơ sở vững chắc. Thần cũng ngờ ngợ là chúng có một loại vũ khí nào rất đáng sợ. Anh Cát Lợi cũng không chắc là sẽ chiến thắng được vũ khí này mà nhượng bộ lui binh. Vậy nên, ngoài việc quấy rối bằng quân sự, chúng ta cũng phải cài vào đất của chúng một đội quân thám báo. Việc của họ là ăn cắp các bí mật về quân sự và kinh tế về cho ta.

- Trẫm thấy khanh nói có lý. Vậy theo các khanh, việc này nên bắt đầu từ đâu?

- Thần thấy, – Ngô Tòng Châu nãy giờ không nói. – Trước phải cài thám báo vào các mục tiêu kinh tế. Theo thần được biết, đất Ngụy có hai công ty cùng nguồn gốc đang hoạt động nhưng có mâu thuẫn với nhau. Đó là Đông Ấn Anh và Đông Ấn Hà Lan. Có câu kẻ thù của kẻ thù là bạn. Ta có thể móc nối với công ty Đông Ấn Hà Lan, cài người vào và quấy rối từ bên trong. Song song đó, ta cũng cần tìm ra người có bất mãn với Ngụy để dụ dỗ. Theo thần biết, ít nhất có hai người phù hợp và hận Cảnh Thịnh. Đó là cựu Thái tử Nguyễn Bảo, con vua Thái Đức và Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Chúng ta có thể bắt đầu từ đây, dụ dỗ chúng đem về những bí mật quân sự cho chúng ta.

Nghe đến đây, bá quan đều gật gù đồng ý. Tuy nhiên, họ không lên tiếng nữa. Họ hiểu đây chính là lúc Nguyễn Ánh quyết định.

- Vậy việc này cứ làm theo ý các khanh. Ta sẽ giao việc này cho Lê Quang Định và Lê Văn Duyệt lên kế hoạch. Phần Trịnh Hoài Đức, về điều hành sự vụ nội chính, khanh có tài hơn nên sẽ giao cho việc khác. Các khanh có gì còn cần tấu nữa hay không?

- Thần còn một ý kiến, – Trịnh Hoài Đức ứng lời. – Ngày nay, giang sơn tạm thời đã định như vậy. Thiết nghĩ, Hoàng thượng cũng nên lập thành Đế để đối xứng với Cảnh Thịnh. Xưa có câu “An bang, định quốc, bình thiên hạ”. Nay trong đất ta, sự vụ yên ổn, tức đã an bang. Cũng chính lúc Hoàng thượng cần định quốc để lòng dân hướng về. Sau mới thuận tiện để thống nhất giang sơn.

Chúng thần cũng cho là phải. Tất cả bá quan đều đồng thanh lên tiếng mời Ánh định quốc. Vậy là mấy ngày sau, ngày 15 tháng 5, Ánh lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu Gia Long. Ngoài ra, để thuận tiện hơn trong việc giao thương với phương Tây, Ánh quyết định đổi sang dương lịch và gọi là Công lịch.​
 
Last edited:

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu


Chương 18: Ngân hàng và trái ngọt

Chương 18: Ngân hàng và trái ngọt

Ở trên đời, không có gì mà người ta không làm được. Một dòng sông có thể phải đổi hướng hay triệt để hơn, biến mất hoàn toàn. Một ngọn núi cao trong nháy biến thành bình địa. Chỉ có thời gian là không thể can thiệp, không thể cải biến. Ấy, đừng vội lấy Toản ra để phản kháng nhé, trường hợp của cậu là ngoại lệ.

Mới đó mà một năm đã trôi qua. Toản cũng đã lên mười bốn. Tuy vậy, nhìn vào cậu, không một ai dám nghĩ đây là một cậu bé đang ở độ tuổi "ăn chưa no, lo chưa tới". Với những gì cậu đã và đang làm, Đại Việt hay chí ít là ở miền Bắc này thay đổi từng ngày. Người ta không thể nhận ra mình đang ở tại thế kỷ mười tám nữa. Đây đó trên đường, người ta thấy mọc lên những quán cafe nhỏ nhỏ xinh xinh. Dọc các con đường, người ta thấy nhan nhản các tấm bảng lớn. Ngạc nhiên chưa, đây là bảng quảng cáo hẳn hoi. Số là trong một ngày cuối năm trước, Toản cho người thết yến, mời những thương nhân có danh tiếng trong cả nước về Phú Xuân, gọi là tiệc Tất niên và chỉ dành cho những thương nhân thành đạt, nộp nhiều tiền thuế. Tại đây, Toản cũng "vô tình" hé lộ cái gọi là quảng cáo.

Có thể nói, thương nhân là những người nhạy bén vô cùng. Khái niệm quảng cáo dần dần được hình thành và áp dụng rộng rãi, ban đầu là những tấm biển giăng đầy trên phố. Cá biệt hơn, có những thương nhân mạnh dạn cho người đến gõ cửa từng gia đình, hỏi xem họ muốn những sản phẩm tiếp theo sẽ có thêm công dụng gì hay đơn giản là họ có hài lòng với sản phẩm hiện có hay chưa.

Triều đình cũng không đứng ngoài sự lột xác này. Điều làm bá quan hân hoan nhất có lẽ là không cần chầu triều mỗi sáng nữa. Toản cho xây dựng trong thành những toà nhà lớn thuộc về sở hữu của mỗi Bộ. À, cũng phải nói điều này nữa. Mật thám không còn là đặc hữu của nhà Nguyễn nữa. Cùng với sự gợi ý của Toản, Bộ Chính trị quyết định thành lập một sở mật thám chịu sự quản lý duy nhất của nhà vua và của Bộ với tên gọi Cơ quan Phản gián Quốc gia và gọi tắt là CPQ. Người đứng đầu cơ quan, ngạc nhiên chưa, là Đông Định Hầu Nguyễn Phi Long.

Với lợi thế là "đứa con trong bóng tối" của Nguyễn Lữ, anh hoàn toàn qua mặt được quần thần nhà Nguyễn. Cùng với thiên phú thu thập tin tức của mình cũng như muốn cảm ơn tri ngộ của Toản, anh một mình lặn lội vào tận Gia Định và chiêu mộ nhân tài, thành lập một đường dây thám báo hoạt động ngay trước mũi đối tượng mà không hề bại lộ. Hai trong những chiến công vang dội của CPQ là cơ chế điều hành nông nghiệp của Nguyễn Ánh và Công lịch.

Bộ Chính trị quyết định sử dụng ngay Công lịch thay thế cho lịch hiện tại vốn dĩ quá rắc rối. Chính sách nông nghiệp cũng có nhiều thay đổi theo hướng tiếp thu kinh nghiệm ở miền Nam.

Thay đổi lớn nhất có lẽ là chế độ làm việc sáu ngày, nghỉ một ngày. Bá quan làm việc ở văn phòng Bộ mỗi ngày, chầu triều chỉ phải thực hiện vào cuối tháng. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương Nghiệp do sự sát nhập và tách ra từ Bộ Công cùng Bộ Lại. Bộ Binh cũng được tách ra thành Bộ Quốc phòng và Bộ An ninh. Tiếp nữa là sự tách ra của Bộ Lễ thành Bộ Văn hóa và Bộ Giáo dục với sự có mặt của các trường học mở ra trên cả nước.

Vào một ngày cuối thu năm 1794, Ngài Bộ trưởng Bộ Chính trị Nguyễn Văn Tuyết triệu tập buổi nghị sự bất thường với sự yêu cầu của Ngô Thì Nhiệm.

- Khải bẩm Bệ hạ cùng báo cáo chư vị đồng liêu, – Nhiệm nói. – Hiện nay, tình hình phát triển của nước ta có nhiều tiến bộ. Bá tính đã có đời sống khá hơn nhiều so với trước đây. Dù vậy, vẫn có một số bất tiện, nhất là về vấn đề lưu thông tiền.

Quay lại nhìn bá quan, ông đặt ra câu hỏi:

- Lão Tuyết, khi ông ra ngoài, ông mang theo bao nhiêu tiền trong người?

- Khoảng ba trăm văn tiền, đa số là Quang Trung Thông bảo , phần còn lại, khoảng một phần mười là Quang Trung Đại bảo. Nhiều hơn thì không thể vì quá nặng và không biết cất ở đâu.

- Thế còn lão, lão Ích?

- Cũng cỡ đó, – Phan Huy Ích trả lời.

- Thế các lão muốn mua một món đồ vật nào đó, một căn nhà chẳng hạn thì sao?

- Tôi phải mang theo một cái rương lớn. – Trả lời là Đô đốc Long.

À, cũng phải nhắc thêm, để tiện bề làm việc, cả Thất Hổ tướng cùng Ngũ Phụng thư từ lâu đã không còn nắm giữ binh lực nữa mà chuyển hẳn về Bộ Chính trị. Quân đội hiện nay giao lại cho Bộ Quốc phòng do Nguyễn Quang Huy làm Bộ trưởng điều hành và chỉ huy. Phần họ sẽ đảm nhận các vị trí trong Bộ Quốc phòng và Hội đồng tham mưu; chỉ có các chiến dịch thực sự lớn mới cần đến sự điều động của họ.

Lúc này, Ngô Thì Nhiệm lại tiếp:

- Điều các ông nói đúng lắm. Đó cũng là trăn trở của tôi. Quả chúng ta không thể lúc nào cũng kè kè một cái rương bạc bên cạnh. Các quan không thể thì thương nhân và bá tính càng không thể, nhất là với thương nhân. Các ông thử nghĩ, như lã Tuyết, ông từ Phú Xuân dẫn theo một thương đội đến Phố Hiến làm ăn sẽ mang bao nhiêu rương bạc? Như vậy có phải rất là cồng kềnh đúng không? Ấy là tôi chưa nói giữa đường gặp chuyện không may gặp tai nạn, lũ lụt hay đon giản hơn là bị cướp giữa đường.

- Thế thì tôi sẽ thuê một đội bảo tiêu đi cùng.

- Nếu chính đội bảo tiêu có lòng tham thì sao? Và ông bị giết trên đường thì sao? Đội bảo tiêu có thể nói ông trượt chân ngã chết trên đường đèo.

Khi này, bá quan dần hiểu ra ý định của Nhiệm và nhận thấy tính nghiêm trọng của nó.

- Tôi hiểu ý ông rồi, – Trần Văn Kỷ lên tiếng. Ý ông là chúng ta cần có biện pháp luân chuyển tiền bạc an toàn hơn đúng không?

- Tôi có nhớ – ứng lời là Phan Văn Lân – người phương Bắc có một hệ thống t.ư nhân gọi là tiền trang t.ư nhân. Anh có thể gửi tiền vào tiền trang ở đây, thu lại một tờ gimo65tgoi5 là ngân phiếu; sau đó, anh lại cầm tờ ngân phiếu đó đến một tiền trang ở Phố Hiến và đổi lại thành tiền.

- Ồ… Như vậy quả thật thuận tiện. – Đô đốc Lộc nói xen vào.

- Như vậy cũng không ổn, – lên tiếng là Phan Huy Ích. – Thử nghĩ, nếu tiền trang đó có lòng tham hay cấu kết người ngoài, họ sẽ dễ dàng thao túng đồng tiền và gây hại cho xã tắc.

- Ông đã nói đúng chủ đích của tôi, – Nhiệm nói. – Tôi có ý muốn lập một hệ thống tiền trang do chính triều đình chưởng quản. Các ông thấy sao?

- Ý là tốt, – Ích nói tiếp. – Nhưng không phải người dân nào cũng muốn bỏ tiền vào tiền trang. Đồng tiền đi liền khúc ruột mà. Tôi nhớ, thời Hồ Quý Ly tiếm ngôi nhà Trần, ông ta có phát hành một loại tiền gọi là tiền giấy, bãi bỏ tiền xu. Hay là ta cũng làm như thế này?

- Đây cũng không hẳn là ý hay, – Nhiệm nói tiếp, cố bảo vệ quan điểm của mình. – Ông nên nhớ là tiền giấy tốt thật nhưng lại không được ủng hộ. Nó dẽ rách và khó dùng nếu bị ướt. Không phải bá tính thời đó cũng tẩy chay hay sao?

- Trẫm cũng có ý kiến. Các khanh cũng biết người Anh Cát Lợi và Hà Lan cũng có tiền giấy. Người Anh Cát Lợi có hai loại tiền, một là loại tiền xu với mệnh giá thấp, một là tiền giấy gọi là đồng Bảng với giá trị cao hơn. Chúng ta cũng có thể học theo cách này, phát hành cả hai loại tiền như trên. Thế nhưng, khi áp dụng sẽ có một số thay đổi. Về loại tiền xu, chúng ta có hai loại, đó là tiền kẽm như hiện nay và một loại tiền có giá trị cao hơn gọi là hào được làm với bảy phần kẽm và ba phần đồng. Theo đó, một hào sẽ có giá trị bằng một trăm kẽm, hai loại tiền lớn hiện nay là Quang Trung Thông bảo và Quang Trung đại bảo sẽ được thu hồi. Về tiền giấy, ta cũng quy định cho nó một cái tên gọi là đồng với các giá trị một đồng, mười đồng, hai mươi đồng, năm mươi đồng, năm mươi đồng và một trăm đồng. Bá tính nếu ít tiền có thể dùng loại tiền xu, nhiều hơn có thể mang theo tiền giấy tùy mục đích. Các khanh thấy sao?

- Thần thấy đây là ý hay, – Phan Huy Ích nói thêm. – Nhưng, nếu giao dịch với người Tây phương, tiền giấy của chúng ta sẽ không có giá trị. Họ sẽ lại đổi ra tiền xu hoặc vàng, cũng có thể là châu báu.

- Trẫm cũng nghĩ đến rồi, – Toản nhìn một lượt bá quan. – Trẫm sẽ giao cho Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp tính toán. Một lượng vàng có thể làm được bao nhiêu tiền hào và bao nhiêu tiền giấy. Đương nhiên, tiền giấy cũng phải được làm từ loại giấy tốt, mực tốt, dẻo dai và nhỏ gọn. Như vậy, khi giao thương với chúng ta, người Tây phương có thể quy vàng ra số lượng tiền giấy tương ứng.

- Hay… hay… hay… – Ích nói liền ba tiếng hay. – Thần có tiếng là thích bàn ra trong Bộ Chính trị. Nhưng quả thật ý của Bệ hạ quả là phương pháp lưỡng toàn kỳ mỹ.

- Nếu vậy, chúng ta sẽ tiến hành bỏ phiếu, – Tuyết lên tiếng, có lẽ trong số những người ở đây, ông là người có nhiều hứng thú nhất với quy tắc phổ thông đầu phiếu này. Kết quả bỏ phiếu được thông qua với tất cả các phiếu thuận.

- Còn về tiền trang? – Nhiệm tiếp tục kiên trì.

- Có gì là khó đâu? – Thiếp nói – Chúng ta cũng cho t.ư nhân lập tiền trang với tên gọi chung là Ngân hàng. Nhưng tất cả phải nằm dưới sự quản lý của một cơ quan gọi là Ngân hàng Tầng lớp trung tâm. Tiền phát hành cũng do Ngân hàng Tầng lớp trung tâm này quản lý.

Vậy là, triều Tây Sơn đã có một hệ thống Ngân hàng và tiền tệ cho riêng mình. Theo tính toán của Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp, một lượng vàng có thể làm được hai trăm đồng và hai nghìn một trăm hào. Vậy là, hệ thống quy đổi cũng thành hình với tỷ lệ một đồng ăn mười hào, một hào ăn chín mươi chín kẽm.

Hai tháng sau, hệ thống Ngân hàng đầu tiên được thành lập do công ty Đông Ấn Anh mở ra với bốn chi nhánh ở Quy Nhơn, Phú Xuân, Phố Hiến và Thăng Long. Ngay sau đó là hệ thống do công ty Đông Ấn Hà Lan. Người Việt cũng có cho mình hai hệ thống với tên gọi Phú Thương Ngân hàng và Canh Nông Ngân hàng.
 

Ngô Thu

Phàm Nhân
Ngọc
47,50
Tu vi
0,00
Cảnh Thịnh Đế tân truyện
Tác giả: Ngô Thu
Chương 19: Gặp lại Mã Kim Đa
Vua David I và Chinh Tây Vương Jack
Chương 19: Gặp lại Mã Kim Đa
Vua David I và Tây Chinh Vương Jack​
Tháng 5 năm 1795,

Từ sáng hôm nay, cảng Thị Nại rực rỡ cờ hoa. Trên con đường dài dẫn đến cảng, người ta nhìn thấy có hai hàng thiếu nữ xinh đẹp, xúng xích trong chiếc tà áo tím tinh khôi. Dưới bến cảng, đoàn quân nhạc đang tấu lên những khúc quân ca hùng tráng. Phía xa xa bên tay phải, một hàng binh sĩ trong bộ trang phục màu đỏ sọc trắng đứng nghiêm, lưng đeo súng, thần sắc vô cùng nghiêm trang.

Ở phía xa, một chiến thuyền lớn mang tên “Hy vọng” từ từ tiến lại. Trong giây lát con thuyền cập bến, mười tám phát đại bác nổ vang rền, tiếp sau đó là loạt đạn chào đón cũng với mười tám tiếng nổ chát chúa. Mã Kim Đa bước xuống cầu tàu trong nỗi ngạc nhiên vô bờ. “Mình chỉ là một tướng quân bình thường, có cần chi vua nước Đại Việt lại chào đón bằng nghi thức quá sức long trọng như vậy?”

Quả thực, đây là nghi thức chào đón cấp cao nhất dành cho các vị nguyên thủ Quốc gia. Mã Kim Đa bước xuống với suy nghĩ mông lung, ngờ ngợ: “Không lẽ nhà vua trẻ biết được chuyện gì hay sao?... Nếu quả thế thì đây không thể xem là một vị vua bình thường. Hay người này cũng là một vị tiên tri đạt đến trình độ của Nostra Damus?” Bao nhiêu ý nghĩ lởn vởn trong đầu ông lúc này.

Toản tiến lên chào, cậu không nói nhưng chỉ mỉm cười. Thấy vậy, Mã Kim Đa cười xởi lởi:

- Thần có tài đức gì mà lại để Quốc vương Bệ hạ dùng nghi thức long trọng thế này để tiếp đón, lại đích thân Ngài tới đây? Thần chỉ là một tướng quân hết sức bình thường của Anh Cát Lợi mà thôi.

- Trẫm cũng biết chỉ là một tướng quân. Nghi thức chào đón này là nghi thức cao cấp nhất dành cho các Nguyên thủ Quốc gia. Người ta chào đón còn đi đằng sau ông.

Toản nhìn về người đàn ông trung niên cao lớn với mái tóc màu hung phía sau:

- Ngài hài lòng với nghi thức chào đón này chứ, Ngài George Frederick Augustus? Hay nói đúng hơn là Thái tử Augustus?

Toàn trường sững sờ. Ngay cả đối với bá quan văn võ, họ vốn dĩ rất lấy làm lạ khi Toản yêu cầu nghi thức long trọng nhất này khi đón đoàn sứ bộ. Vậy ra, người được mô tả trong phi cáp truyền thư của thám tử ba hôm trước lại là một vị thái tử. Quả vậy, trước đây ba ngày, Toản nhận được báo cáo từ CPQ về sự xuất hiện của đoàn thuyền chở sứ bộ Anh Cát Lợi đang tiến đến. Trong báo cáo có nêu rõ, ngoài những thành viên trong sứ bộ lúc trước còn có một người đàn ông trung niên. Ông ta là một người đàn ông cao lớn, tóc xoăn màu hung đỏ. Dáng dấp tuy hết sức bình thường so với những người phương Tây khác nhưng trong ánh mắt lại ánh lên vẻ tinh anh cùng với nụ cười luôn nở trên môi. Trên thuyền, ông ta trong bộ áo choàng màu đỏ, mang một phong thái lãng tử đối lập hoàn toàn với vẻ âm trầm và rắn rỏi của Mã Kim Đa.

- Quả là không thể tin được Ngài chỉ là một thiếu niên mười lăm tuổi, Quốc vương Bệ hạ, – Người đàn ông lên tiếng. – Hay là chúng ta đã từng gặp nhau? Không thể nào.

- Thật ra, tôi đã nhìn thấy chân dung Ngài trước đây ở công ty Đông Ấn Anh. Người của tôi đã miêu tả về sự xuất hiện của Ngài từ cách nay ba ngày.

- Vậy ra thám tử của Quý quốc thật sự rất nhanh nhạy, điều ít thấy ở các Quốc gia khác mà tôi từng đi qua.

Lúc này, Toản không xưng là Trẫm mà chỉ dùng từ tôi như Augustus. Điều đó thể hiện sự bình đẳng trong quan hệ giữa hai bên. Nhất là khi, người đối diện lại là vị vua George IV trong tương lai mười lăm năm tới. Có thể nói, George III và George IV là hai trong những vị vua nổi tiếng nhất của nước Anh. Nếu như nói George III là người thành lập nên Liên hiệp Anh với cái tên Great Britain thì con ông, George IV là người đặt nền móng cho sự thống trị của Vương quốc Anh trên toàn cõi trái đất. Chân dung của hai ông từ lâu đã in hằn trong óc của những sinh viên đại học như cậu thời còn ở thế kỷ hai mươi mốt.

Toản dẫn đoàn sứ bộ duyệt qua hàng binh sĩ danh dự, sau đó lại giới thiệu bá quan văn võ đang đứng xếp hàng, đặc biệt là anh cậu, Quang Bàn.

- Thái tử, nếu tôi nhớ không lầm thì Ngài là người phóng khoáng, không thích những lễ nghi phức tạp và rườm rà. Những gì vừa diễn ra chắc cũng gây cho Ngài một ít sự khó chịu?

- Không đến nỗi như vậy. Ban đầu đúng là khó chịu thật vì sự ngạc nhiên Ngài dành cho tôi. Nhưng sau đó, sự khó chịu này lại trở thành niềm hoan hỉ. Tôi biết Anh Cát Lợi lúc này đã có một minh hữu hết sức mạnh mẽ ở phương Đông.

- Thôi, tôi cũng chẳng thích rườm rà. Chúng ta hãy đến dự yến đã chuẩn bị sẵn hôm nay thôi. Khác với những buổi yến tiệc khác, lần này chúng ta sẽ cùng nâng cốc ở một trong những bãi biển đẹp nhất Đại Việt, Ghềnh Ráng.

- Vậy thì xin mời.

Đoàn người sau đó nhanh chóng di chuyển. Trong đại yến, Augustus tỏ ra vô cùng hào hứng với cảnh đẹp hoang sơ mà kỳ vĩ của vùng đất phương Đông này. Điều ông đặc biệt chú ý là trí tuệ và nhạy bén của hai người trong Hoàng tộc. Đặc biệt, người ông cực kỳ ưa thích chính là Quang Bàn, bởi một lý do đơn giản, cũng như ông, nụ cười bao giờ cũng hiện hữu trên môi anh.

- Thái tử, tôi biết người phương Tây các Ngài rất khó khăn trong việc phát âm tên người Việt chúng tôi. Vậy để tiện bề xưng hô, Ngài hãy gọi tôi với cái tên David, đúng vậy, David I.

Dừng lại một chút, cậu lại hướng về Quang Bàn:

- Còn đây là huynh trưởng của tôi, Tây chinh Vương Nguyễn Quang Bàn. Ngài cũng có thể gọi anh ta với một cái tên tiếng Anh, Jack.

- Tây chinh Vương? Ý Ngài là Ngài Vương gia đây sẽ đem quân chinh phục phương Tây à? Có vẻ như…

- Không như Ngài nghĩ đâu, – Toản tiếp lời khi Augustus còn đang bỏ dở câu nói. – Phương Tây trong mắt người Việt quả thật như là một vùng đất vô cùng bí ẩn. Anh tôi sẽ như là một nhà thám hiểm, dạo bước đến thăm Châu Âu. Anh cũng chính là đại sứ thay mặt cho cả Đại Việt ở trời Tây. Sắp tới đây, Jack sẽ cùng Ngài đến thăm Vương quốc Anh Cát Lợi và điện Buckingham bên bờ sông Thames thơ mộng. Những gì anh ta quyết định cũng chính là điều mà toàn dân Đại Việt nghe theo và chấp hành.

- Ồ! Ngài cũng biết đến điện Buckingham và sông Thames kia à? – Augustus bỏ qua câu nói cuối, chỉ lấy làm hứng thú với những hiểu biết của Toản.

- Ngài có điều còn chưa biết, – Bàn nói xen vào. – David còn làm cho tôi ngạc nhiên khi nói đến những địa danh như Paris hoa lệ, Milan đài các, thành Vienne thơ mộng,… Điều này làm cho tôi là một người lười biếng, không thích chuyện chốn quan trường, chỉ lấy thơ phú, cảnh đẹp và rượu ngon làm hứng thú như tôi phải ngỡ ngàng. Tôi thật muốn có một ngày dong thuyền đi ngao du tam hồ tứ hải.

- Thế thì Ngài phải ở lại Anh Cát Lợi một thời gian dài. London chúng tôi ngoài dòng sông Themes thơ mộng còn nổi tiếng với danh hiệu “Xứ sở sương mù”. Ngài cứ thử hình dung xem, ôi sông Thames của ta, lượn lờ phía trên là sương mù lạnh giá nhưng lại làm nao lòng vô số thi sĩ.

Phải nói rõ, bản thân Augustus không thích chính trị. Cũng như Bàn, đam mê lớn nhất của ông là nghệ thuật. Đến nổi, ông còn có một danh hiệu là “Nghệ thuật cuồng nhân”. Chính ông chứ không phải ai khác cho người sửa sang lại lâu đài Buckingham, thiết kế lại lâu đài Windsor và xây dựng Thư viện Quốc gia.

- Thế thì tuyệt quá, tôi dự định sẽ ở Anh Cát Lợi những một năm kia đấy. Thế có được không?

- Thế thì còn gì bằng.

- Để đáp lại thịnh tình đồng ý cho tôi lưu lại một năm, tôi sẽ mời Ngài đi dạo sông Hương. Đúng vậy, London có dòng sông Thames thơ mộng thì Phú Xuân chúng tôi cũng có dòng sông Hương hiền hòa và đẹp như một cô gái tuổi xuân thì. Quả thật giữa hai nước chúng ta có những điều trùng hợp đến lạ.

Bàn và Augustus còn nói chuyện rất nhiều. Họ tỏ rõ sự hiểu biết và thông thái của mình về ca từ thi phú. Kể cả đến sở thích ăn uống và người đẹp, họ cũng đều giống nhau. Toản lúc này lại có vẻ như một cái bóng không được lưu ý nữa.

Sau buổi yến tiệc cũng chính là lúc bàn đến việc quan trọng. Không làm mất quá nhiều thời gian, Toản vào đề ngay:

- Thái tử, Ngài còn nhớ trong thỏa thuận giữa chúng ta, Anh Cát Lợi đáp ứng chúng tôi là sẽ bán hai mươi chiến thuyền, không biết việc này Quý quốc đã giải quyết đến đâu rồi?

- Nói ra thật xấu hổ. Ngài biết không, chúng tôi chỉ mới sản xuất được mười chiếc.

Dừng lại nhìn Toản một chốc, Augustus lại tiếp:

- Giải pháp của chúng tôi lệ thuộc vào sự phóng khoáng và thông cảm của Ngài. Chúng tôi sẽ bù vào đó là mười chiếc chiến thuyền đã được sử dụng ba năm nay với giá chỉ bằng một nửa. Hơn nữa, chúng tôi cũng có phái đến đây một đoàn kỹ sư về công nghệ đóng tàu. Họ sẽ ở lại Đại Việt một năm và hướng dẫn những kỹ thuật đóng tàu mới nhất của chúng tôi cho Quý quốc.

- Tôi hiểu là phải có điều kiện đúng không? Để tôi đoán nhé. Các Ngài muốn bản vẽ kỹ thuật của súng Điểu thương?

- Đúng vậy. Chúng tôi hết sức hài lòng với những cây súng Quý quốc đã giao ngay tại thời điểm chúng ta ký kết thỏa thuận ghi nhớ. Điều này chứng tỏ Quý quốc là nơi ở của những người hết sức phóng khoáng và chân thành. Bởi vậy, Anh Cát Lợi đồng ý gửi những kỹ sư giỏi nhất của mình đến đây hướng dẫn kỹ thuật. Đây cũng là lần đầu tiên mà chúng tôi có quyết định như thế.

- Thái tử, tôi còn muốn đề nghị với Ngài một sự hợp tác khác nữa, Ngài muốn nghe không?

- Xin mời nói.

- Tôi muốn Anh Cát Lợi nhận những du học sinh Đại Việt đến học tập. Các Ngài cũng có thể mở một trường Đại học tương tự như Oxford ngay tại Đại Việt, khi những học viên của chúng tôi đạt đến trình độ nhất định mới được duyệt đi du học. Đổi lại, chúng tôi sẽ có những ưu đãi cao nhất dành cho thương buôn Quý quốc. Ngoài ra, đó chính là một sản phẩm mới hoàn toàn, một loại vũ khí giúp Anh Cát Lợi có thể hoàn toàn áp đảo nước Pháp ít nhất là trong vòng năm mươi năm.

- Áp đảo nước Pháp ít nhất năm mươi năm? Có thể sao? Vậy thì chúng tôi quá hời rồi. Vậy thì đương nhiên còn điều kiện kèm theo đúng không?

- Ngài quả thật rất thông minh. Tôi có thể cho Ngài biết vũ khí bí mật này là gì vào hai mươi ngày sau. Đổi lại, tôi còn muốn các Ngài giúp Đại Việt trong công nghệ đúc gang thép.

- Không thành vấn đề. Tôi, George Frederick Augustus thay mặt cho toàn thể Anh Cát Lợi đồng ý với những thỏa thuận này với điều kiện vũ khí bí mật kia thật sự hiệu quả.

Vậy là trong chuyến đi này, vị vua tương lai của Anh Cát Lợi thực sự có được một minh hữu mạnh mẽ ở phương Đông. Ông cũng hoàn toàn hài lòng về con người của Toản cùng với người bạn tâm giao mới quen, Quang Bàn. Augustus cũng đánh giá, cậu bé trước mặt đây sau này sẽ thực sự trở thành một vị đại đế, David I Đại đế.
 

Những đạo hữu đang tham gia đàm luận

Top